Sách bộ não tự thay đổi chính nó

Bộ Não Tự Thay Đổi Chính Nó

Chương 1: Bộ Não tự thay đổi chính nó

  • Bộ Não tự thay đổi chính nó
  • THE BRAIN THAT CHANGES ITSELF
  • Tác giả: Norman Doidge
  • Năm xuất bản: 2007
  • Độ dài: 11 chương
  • Dịch bởi: TLHTP

Một người phụ nữ liên tục bị té ngã… được giải cứu bởi người đàn ông đã khám phá ra Tính dẻo của các giác quan 

Cheryl Schiltz cảm thấy mình luôn luôn bị ngã. Và bởi vì cô cảm thấy như thể mình đang ngã, cho nên cô ngã.

Khi cô ấy đứng mà không có sự hỗ trợ, trong giây lát, trông cô cứ như là đang đứng trên một vách núi chực lao thẳng xuống. Đầu tiên, đầu cô lắc lư và nghiêng sang một bên, và hai tay cô vươn ra cố gắng đứng vững. Chẳng mấy chốc, toàn bộ cơ thể cô chao đảo và cô trông giống như một người đang bước đi trên dây trước khi mất thăng bằng — ngoại trừ hai chân cô đứng vững chắc trên mặt đất, nhưng lại cách xa nhau. Cô không giống như chỉ sợ bị ngã, mà giống như cô đang sợ mình bị xô đẩy.

“Cô giống như một người đang đi loạng choạng trên cầu,” tôi nói, “Vâng, tôi cảm thấy mình sắp nhảy xuống cầu, cho dù tôi không muốn.” Quan sát cô ấy kỹ hơn, tôi có thể thấy cô đang cố gắng đứng yên, cô co giật, như thể có một nhóm băng đảng vô hình đang xô đẩy cô, đầu tiên từ phía này, sau đó từ phía khác, tìm cách hạ gục cô. Chỉ có điều băng đảng này thực sự nằm bên trong cô và đã làm điều này với cô trong năm năm. Khi cô ấy cố gắng đi bộ, cô phải bám vào một bức tường, và cô vẫn đi lảo đảo như người say rượu. Đối với Cheryl thì không có ngày bình yên, ngay cả sau khi cô bị ngã ra sàn.”Cô có cảm giác gì khi cô bị ngã?” Tôi hỏi cô ấy. “Cảm giác rơi, ngã có mất đi khi cô đã bị ngã không?”

Có những lúc,” Cheryl nói, “khi tôi đánh mất cảm giác về cảm giác của sàn nhà theo nghĩa đen… và một cái bẫy tưởng tượng mở ra và nuốt chửng lấy tôi.” Ngay cả khi cô đã ngã, cô vẫn cảm thấy mình đang rơi mãi vào một vực thẳm vô tận.

Vấn đề của Cheryl là bộ máy tiền đình của cô, cơ quan cảm giác chịu trách nhiệm cho hệ thống cân bằng, không hoạt động. Cô ấy rất mệt mỏi, và cảm giác cô đang rơi tự do khiến cô phát điên lên vì cô không thể nghĩ được thứ gì khác. Cô lo sợ tương lai. Ngay khi vấn đề của cô bắt đầu xuất hiện, cô bị mất việc làm đại diện bán hàng quốc tế và hiện đang sống nhờ trợ cấp khuyết tật với $1,000 một tháng. Cô ấy có một nỗi sợ hãi mới hình thành. Và cô có một dạng lo âu hiếm gặp không thể gọi tên.

Một khía cạnh không lời và sâu sắc của sức khỏe của chúng ta dựa trên việc có một cảm giác cân bằng hoạt động bình thường. Vào những năm 1930 bác sỹ tâm thần Paul Schilder đã nghiên cứu làm thế nào cảm giác khỏe mạnh và một hình ảnh cơ thể “ổn định” có liên quan đến cảm giác tiền đình. Khi chúng ta nói về “cảm giác ổn định” hoặc “bất ổn định”, “cân bằng” hoặc “mất cân bằng”, “đã bén rễ” hoặc “mất rễ,” “trên mặt đất” hoặc “không vững chắc,” chúng ta đang nói đến ngôn ngữ tiền đình, sự thật này trở nên rõ ràng hơn ở những người giống như Cheryl. Không ngạc nhiên khi những người mắc chứng rối loạn như cô thường mắc phải các vấn đề tâm lý, và nhiều người đã tự tử.

Đọc ngay: Ý nghĩ làm thay đổi cấu trúc não bộ như thế nào

Chúng ta có những giác quan mà ta không biết mình đang có — cho đến khi ta đánh mất chúng; sự cân bằng là một giác quan thường hoạt động rất tốt, rất nhẹ nhàng, nhưng nó không được liệt kê trong số năm giác quan mà Aristotle đã mô tả và bị bỏ qua trong nhiều thế kỷ sau đó.

Hệ thống cân bằng cho chúng ta cảm giác định hướng trong không gian. Cơ quan cảm giác của nó, bộ máy tiền đình, bao gồm ba ống bán khuyên ở tai trong cho chúng ta biết khi nào mình đang đứng thẳng và lực hấp dẫn ảnh hưởng đến cơ thể chúng ta bằng cách phát hiện chuyển động trong không gian ba chiều. Một ống phát hiện chuyển động trong mặt phẳng ngang, ống khác trong mặt phẳng thẳng đứng và ống khác khi chúng ta di chuyển tiến hoặc lùi. Các ống bán khuyên chứa ít lông trong chất lỏng. Khi chúng ta di chuyển đầu mình, chất lỏng khuấy động các sợi lông, gửi tín hiệu đến bộ não cho chúng ta biết rằng mình đã tăng vận tốc theo một hướng cụ thể. Mỗi chuyển động đòi hỏi một sự điều chỉnh tương ứng của phần còn lại của cơ thể. Nếu chúng ta di chuyển đầu của mình về phía trước, bộ não sẽ thông báo cho một bộ phận thích hợp trong cơ thể chúng ta để điều chỉnh, một cách vô thức, để chúng ta có thể bù đắp cho sự thay đổi trọng tâm đó và duy trì sự cân bằng của chúng ta. Các tín hiệu từ bộ máy tiền đình đi dọc theo dây thần kinh đến một khối tế bào thần kinh chuyên biệt trong não của chúng ta, được gọi là “nhân tiền đình”, xử lý chúng, sau đó gửi lệnh đến cơ bắp của chúng ta để tự điều chỉnh. Một bộ máy tiền đình khỏe mạnh cũng có một liên kết chặt chẽ với hệ thống thị giác của chúng ta. Khi bạn chạy theo sau một chiếc xe buýt, với cái đầu của bạn nảy lên nảy xuống xuống khi bạn chạy về phía trước, bạn có thể giữ cho chiếc xe buýt đang di chuyển đó ở trung tâm của tầm mắt của bạn vì bộ máy tiền đình của bạn gửi tín hiệu đến não, cho nó biết tốc độ và hướng đi mà bạn đang chạy. Những tín hiệu này cho phép bộ não của bạn xoay và điều chỉnh vị trí của nhãn cầu để giữ chúng hướng vào mục tiêu của bạn, là chiếc xe buýt.

Tôi cùng với Cheryl, và Paul Bach-y-Rita, một trong những người tiên phong vĩ đại trong việc hiểu về tính dẻo của não, và nhóm của ông ấy, trong một trong những phòng thí nghiệm của ông ấy. Cheryl đặt nhiều hy vọng vào cuộc thí nghiệm ngày hôm nay và kiên cường, trải lòng về tình trạng của cô. Yuri Danilov, nhà sinh lý học của nhóm, thực hiện các tính toán trên dữ liệu họ đang thu thập về hệ thống tiền đình của Cheryl. Anh ấy là người Nga, cực kỳ thông minh và có giọng nói trầm. Anh cho biết, “Cheryl là một bệnh nhân bị mất chín mươi lăm đến một trăm phần trăm hệ thống tiền đình.”

Theo bất kỳ tiêu chuẩn thông thường nào, trường hợp của Cheryl là vô vọng. Quan điểm thông thường cho thấy bộ não được cấu thành từ một nhóm các mô-đun xử lý chuyên biệt, được thiết kế về mặt di truyền để thực hiện các chức năng cụ thể và một mình, mỗi chức năng được phát triển và hoàn thiện qua hàng triệu năm tiến hóa. Khi một trong số chúng bị hỏng thì không thể thay thế được. Hiện giờ hệ thống tiền đình của cô ấy đã bị tổn thương, Cheryl có nhiều cơ hội lấy lại sự thăng bằng giống như một người có võng mạc bị tổn thương có cơ hội được nhìn thấy lại. Nhưng hôm nay, tất cả những điều đó sắp được thử thách.

Cô ấy đang đội một chiếc mũ xây dựng với những chiếc lỗ ở bên cạnh và một thiết bị bên trong mũ được gọi là gia tốc kế. Liếm một dải nhựa mỏng với các điện cực nhỏ trên đó, cô đặt nó lên lưỡi. Gia tốc kế trong mũ gửi tín hiệu đến dải, và cả hai được gắn vào một máy tính gần đó. Cô ấy cười khi nhìn vào chiếc mũ, “bởi vì nếu tôi không cười thì tôi sẽ khóc.”

Cỗ máy này là một trong những mô hình kỳ quái của Bach-y-Rita. Nó sẽ thay thế bộ máy tiền đình của cô và gửi tín hiệu cân bằng đến não bộ từ lưỡi của cô. Chiếc mũ này có thể loại bỏ cơn ác mộng hiện tại của Cheryl. Vào năm 1997 sau cuộc phẫu thuật cắt tử cung, Cheryl khi đó ba mươi chín tuổi, bị nhiễm trùng hậu phẫu và được tiêm kháng sinh gentamicin. Việc sử dụng quá nhiều gentamicin được cho là gây độc cho cấu trúc tai trong và có thể là nguyên nhân gây mất thính giác (mà Cheryl không có), ù tai và phá hủy hệ thống cân bằng. Nhưng vì gentamicin rẻ tiền và hiệu quả nên nó vẫn được kê đơn, dù thường chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Cheryl nói rằng cô đã được cho thuốc quá liều. Và thế là cô đã trở thành một trong những nạn nhân của bộ tộc nhỏ gentamicin, được biết đến với cái tên Wobblers.

Bỗng một ngày nọ, cô phát hiện ra mình không thể đứng mà không bị ngã. Cô quay đầu và cả căn phòng sẽ chuyển động. Cô không thể biết được liệu do cô hay các bức tường gây ra sự chuyển động. Cuối cùng, cô đứng lên bằng cách vịn vào tường và với lấy cái điện thoại để gọi cho bác sỹ. Khi cô đến bệnh viện, các bác sỹ đã cho cô làm nhiều bài kiểm tra khác nhau để xem chức năng tiền đình của cô có hoạt động hay không. Họ đổ nước lạnh và ấm vào hai tai của cô và nghiêng đầu cô trên bàn. Khi họ yêu cầu cô đứng yên và nhắm mắt, cô đã bị ngã. Một bác sỹ cho cô biết rằng “Cô không có chức năng tiền đình.” Các xét nghiệm cho thấy chức năng tiền đình của cô chỉ còn khoảng 2 phần trăm.

“Ông ta quá vô tình”, cô nói. ‘Nó giống như là một tác dụng phụ của gentamicin.'” Cheryl trở nên xúc động. “Tại sao trên thế giới này không có ai nói cho tôi biết điều đó? ‘Nó kéo dài suốt đời,’ anh nói. Tôi sống một mình. Mẹ tôi đưa tôi đến khám bác sỹ, nhưng bà lại xuống lấy xe và đợi tôi ở ngoài bệnh viện. Mẹ tôi hỏi, ‘Mọi chuyện ổn chứ con?’ Và tôi nhìn bà mà nói, ‘Nó kéo dài suốt đời… nó sẽ không bao giờ biến mất.”

Vì mối liên kết giữa bộ máy tiền đình của Cheryl và hệ thống thị giác của cô đã bị tổn thương nên đôi mắt cô không thể theo dõi mục tiêu đang chuyển động một cách trơn tru. “Mọi thứ tôi nhìn thấy giống như một cuốn video nghiệp dư tồi,” cô nói. “Dường như mọi thứ tôi nhìn thấy đều làm từ Jell-O, và với mỗi bước đi của tôi, mọi thứ đều nghiêng ngả.”

Mặc dù cô ấy không thể theo dõi các vật thể đang chuyển động bằng đôi mắt của mình, thị giác của cô ấy là tất cả những gì cô có để nói cho cô biết là cô đang đứng thẳng. Đôi mắt của chúng ta giúp cho ta biết mình đang ở đâu trong không gian bằng cách cố định trên các đường ngang. Có một lần khi đèn tắt, Cheryl ngay lập tức bị ngã xuống sàn. Nhưng thị giác cho thấy nó là một cái nạng không đáng tin cậy đối với cô, bởi vì bất kỳ loại chuyển động nào trước mặt cô – ngay cả một người hướng tới cô – chỉ làm trầm trọng thêm cảm giác té ngã. Ngay cả những đường zigzag gấp khúc trên một tấm thảm cũng có thể xô ngã cô ấy bởi nó gửi đi những thông điệp sai làm cô ấy tưởng mình đang đứng ở chỗ quanh co khi thực tế không như vậy.

Cô ấy cũng bị mệt mỏi về tinh thần vì luôn phải cảnh giác cao độ. Nó lấy đi rất nhiều năng lực trí óc để duy trì tư thế đứng thẳng— năng lực não được lấy từ các chức năng tinh thần như trí nhớ và khả năng tính toán, suy luận.

Trong khi Yuri chuẩn bị máy tính cho Cheryl, tôi yêu cầu được thử máy. Tôi đội mũ của công nhân xây dựng lên và nhét vào miệng thiết bị bằng nhựa có gắn điện cực trên đó, được gọi là một hiển thị lưỡi. Nó phẳng, không dày hơn một thanh kẹo cao su.

Gia tốc kế, hoặc cảm biến trong mũ phát hiện chuyển động trong hai mặt phẳng. Khi tôi gật đầu, chuyển động được dịch trên bản đồ trên màn hình máy tính cho phép đội theo dõi nó.

Bản đồ tương tự được chiếu lên một bảng nhỏ gồm 144 điện cực được cấy vào dải nhựa trên lưỡi tôi. Khi tôi nghiêng về phía trước, những cú sốc điện có cảm giác như những bong bóng rượu sâm banh phát ra ở trước lưỡi của tôi, cho tôi biết rằng tôi đang cúi về phía trước. Trên màn hình máy tính, tôi có thể thấy đầu mình đang ở đâu. Khi tôi nghiêng về phía sau, tôi cảm thấy rượu sâm banh xoáy thành một làn sóng nhẹ dưới lưỡi của tôi. Điều tương tự xảy ra khi tôi nghiêng sang hai bên. Sau đó, tôi nhắm mắt lại và thử nghiệm tìm đường trong không gian bằng lưỡi của mình. Tôi sớm quên rằng thông tin cảm giác đến từ lưỡi của tôi và có thể đọc được tôi đang ở đâu trong không gian.

Cheryl lấy lại chiếc mũ; cô giữ thăng bằng bằng cách dựa vào bàn. “Hãy bắt đầu đi nào,” Yuri nói, điều chỉnh các điều khiển.

Cheryl đội mũ và nhắm mắt lại. Cô dựa lưng vào bàn, để hai ngón tay trên bàn để kết nối. Cô ấy không bị ngã. Cô nhấc những ngón tay khỏi bàn. Cô không còn chao đảo nữa. Cô bắt đầu khóc—dòng nước mắt đến sau một chấn thương; bây giờ cô ấy có thể mở mắt và đang đội mũ và cảm thấy an toàn. Lần đầu tiên cô đội chiếc mũ này, cảm giác lúc nào cũng bị té ngã đã biến mất— lần đầu tiên sau năm năm. Mục tiêu của cô trong hôm nay là đứng một mình với chiếc mũ trên đầu, trong hai mươi phút, cố gắng giữ trọng tâm. Đối với bất kì ai— chứ đừng nói đến một Wobbler — để đứng thẳng trong hai mươi phút đòi hỏi sự rèn luyện và kỹ năng của một người lính bảo vệ tại Cung điện Buckingham.

***

Trông cô ấy thật bình yên. Cô ấy có những thay đổi nhỏ. Không còn sự giật mình nữa, và những con quỷ bí ẩn dường như đang tồn tại trong cô, xô đẩy cô, đã biến mất. Bộ não của cô đang giải mã các tín hiệu từ bộ máy tiền đình nhân tạo của cô. Đối với cô, những khoảnh khắc bình yên này là một phép màu— một phép màu của hệ thần kinh, bởi vì bằng cách nào đó những cảm giác tê tê này trên lưỡi cô, thường tìm đường đi đến phần não (thường xuất hiện ở phần não) được gọi là vỏ não cảm giác— lớp mỏng trên bề mặt não, xử lý cảm giác đụng chạm— đang thực hiện theo cách của nó, thông qua một con đường mới trong não, đến vùng não xử lý sự cân bằng.

“Chúng tôi hiện đang nghiên cứu để làm cho thiết bị này đủ nhỏ để giấu được trong miệng,” Bach-y-Rita nói, “giống như một vật chỉnh nha của nha sỹ. Đó là mục tiêu của chúng tôi. Khi đó thì cô ấy và bất kì ai bị tình trạng này sẽ lấy lại được một cuộc sống bình thường. Một ai đó như Cheryl có thể đeo thiết bị này, nói chuyện và ăn uống mà không ai biết cô đang đeo nó.

“Nhưng điều này sẽ không ảnh hưởng đến những người bị gentamicin làm tổn thương,” ông nói tiếp. “Có một bài báo trên tờ New York Times ngày hôm qua viết về chuyện người cao tuổi bị té ngã. Người già sợ té ngã hơn là bị nguyền rủa, một phần ba người già bị té ngã, và vì họ sợ bị ngã nên họ ở nhà, ít vận động, sử dụng chân tay, và thể chất của họ lại trở nên yếu ớt. Nhưng tôi nghĩ một phần của vấn đề là do cảm giác tiền đình— giống như thính giác, vị giác, thị lực và các giác quan khác của chúng ta – bắt đầu suy yếu khi chúng ta già đi. Thiết bị này sẽ giúp họ.”

“Đến giờ rồi,” Yuri nói và tắt máy.

Bây giờ đến điều kỳ diệu thứ hai về thần kinh. Cheryl tháo thiết bị và cởi mũ. Cô ấy cười toe toét, đứng tự do với đôi mắt nhắm nghiền và không bị ngã. Rồi cô ấy mở mắt, vẫn không chạm vào bàn, nhấc một chân lên khỏi mặt đất, để cô ấy giữ thăng bằng ở chân kia.

“Tôi yêu anh chàng này mất rồi,” cô nói, và đi đến ôm Bach-y-Rita. Cô cũng đến cạnh tôi. Trong cô tràn ngập cảm xúc, thấy xúc động khi cảm thấy thế giới lại ở dưới chân mình trở lại, và cô ấy cũng ôm tôi.

“Tôi có cảm giác neo giữ và vững vàng. Tôi không cần phải nghĩ đến cơ bắp của mình đang ở đâu. Tôi thực sự có thể nghĩ về những thứ khác.” Cô quay sang Yuri và trao cho anh một nụ hôn.

“Tôi phải nhấn mạnh lý do tại sao đây là một phép lạ,” Yuri nói, người tự coi mình là một người hoài nghi dựa vào dữ liệu. “Cô ấy gần như không có cảm biến tự nhiên. Trong hai mươi phút qua, chúng tôi đã gắn cho cô ấy một cảm biến nhân tạo. Nhưng điều kỳ diệu thực sự là những gì đang xảy ra bây giờ khi chúng tôi đã tháo thiết bị, và cô ấy không có tiền đình nhân tạo hay tự nhiên. Chúng tôi đang đánh thức một loại sức mạnh khác trong cô ấy.”

Lần đầu tiên khi họ thử chiếc mũ, Cheryl chỉ đội nó trong một phút. Họ nhận thấy sau khi cô tháo mũ ra, có một “hiệu ứng còn sót lại” kéo dài khoảng hai mươi giây, một phần ba thời gian cô đeo thiết bị. Sau đó Cheryl đội mũ trong hai phút và hiệu ứng còn sót lại kéo dài khoảng bốn mươi giây. Sau đó họ chỉnh lên khoảng hai mươi phút và kỳ vọng hiệu ứng còn sót lại kéo dài khoảng dưới bảy phút.

Nhưng thay vì kéo dài một phần ba thời gian, nó kéo dài gấp ba lần thời gian, đủ y một giờ. Ngày hôm nay, Bach-y-Rita nói, họ đang thử nghiệm để xem liệu kéo dài thêm hai mươi phút nữa trên thiết bị sẽ dẫn đến loại hiệu ứng nào, để hiệu ứng còn sót lại sẽ kéo dài lâu hơn nữa.

Cheryl bắt đầu thể hiện. “Tôi có thể bước đi như một phụ nữ trở lại. Chuyện đó có thể không quan trọng đối với đa số mọi người, nhưng điều đó rất có ý nghĩa đối với tôi vì tôi không còn phải đi lại với đôi chân dang rộng như hiện giờ.”

Cô đứng trên một cái ghế và nhảy xuống. Cô cúi xuống nhặt đồ rơi trên sàn nhà, để cho thấy mình có thể tự điều chỉnh. “Lần trước khi tôi làm việc này, tôi có thể nhảy dây trong khoảng thời gian của hiệu ứng còn sót lại.”

“Điều gây bất ngờ là,” Yuri nói, “cô ấy không chỉ giữ nguyên tư thế. Sau một khoảng thời gian trên thiết bị, cô ấy hành xử gần như người bình thường. Giữ thăng bằng trên xà. Lái xe. Đó là sự phục hồi của chức năng tiền đình. Khi cô ấy di chuyển đầu, cô ấy có thể tập trung vào mục tiêu của mình— mối liên kết giữa hệ thống thị giác và tiền đình cũng được phục hồi.”

Tôi nhìn lên và thấy Cheryl đang nhảy với Bach-y-Rita. Cô dẫn dắt.

Làm thế nào mà Cheryl có thể nhảy và trở lại hoạt động bình thường mà không cần máy móc? Bach-y-Rita cho rằng có một vài lý do. Một lý do là, hệ thống tiền đình bị hỏng của cô ấy là vô tổ chức và “ồn ào,” gửi đi các tín hiệu ngẫu nhiên. Do đó, tiếng ồn từ các mô bị hỏng chặn bất kỳ tín hiệu nào được gửi đến bởi các mô khỏe mạnh. Máy móc giúp củng cố các tín hiệu từ các mô khỏe mạnh của cô. Ông nghĩ rằng máy móc cũng giúp tạo dựng các con đường khác, đây là nơi mà tính dẻo xuất hiện. Một hệ thống não bộ được tạo thành từ nhiều con đường mòn thần kinh, hoặc các tế bào thần kinh được kết nối với nhau và hoạt động cùng nhau. Nếu một số con đường chính bị chặn lại thì não bộ sẽ dùng các con đường cũ hơn để đi xung quanh chúng. “Tôi nhìn sự việc theo cách này,” Bach-y-Rita nói. “Nếu bạn đang lái xe từ đây đến Milwaukee, và cây cầu chính bị chặn, thoạt tiên bạn bị tê liệt. Sau đó bạn đi theo những con đường phụ cũ xuyên qua đất nông nghiệp. Sau khi bạn đi những con đường này nhiều hơn thì bạn sẽ tìm thấy những con đường ngắn hơn để đến nơi bạn muốn đi và bắt đầu đến đó nhanh hơn.” Những con đường mòn thần kinh “phụ” này “bị lột trần” hoặc bị phơi bày ra, và khi được sử dụng, nó sẽ được củng cố. Việc “bị lột trần” này thường được cho là một trong những phương cách chính mà bộ não ni-lông tự tổ chức lại chính nó.

Việc Cheryl đang dần dần kéo dài hiệu ứng còn sót lại cho thấy con đường bị phơi bày ra ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bach-y-Rita hy vọng rằng Cheryl, với sự huấn luyện, sẽ có thể tiếp tục kéo dài thời gian của hiệu ứng còn sót lại.

Vài ngày sau, một email được gửi đến Bach-y-Rita từ Cheryl, bản báo cáo của cô ở nhà về thời gian còn sót lại kéo dài bao lâu. “Tổng thời gian còn sót lại là: 3 giờ, 20 phút… Sự chao đảo, loạng choạng lại bắt đầu xuất hiện trong đầu tôi— giống như thưởng lệ… Tôi gặp khó khăn trong việc tìm từ ngữ… cảm giác đang bơi trong đầu tôi. Mệt mỏi, kiệt sức … Thất vọng.”

Một câu chuyện về nàng Lọ Lem đau đớn. Quay trở lại bình thường là rất khó. Khi nó xảy ra, cô cảm thấy mình đã chết, sống lại và rồi chết lại. Mặt khác, ba giờ hai mươi phút chỉ sau hai mươi phút đeo máy là khoảng thời gian còn sót lại lớn hơn gấp mười lần so với thời gian đeo thiết bị. Cô là Wobbler đầu tiên từng được điều trị và ngay cả nếu thời gian còn sót lại không thể nào kéo dài hơn nữa, thì hiện giờ cô có thể đeo thiết bị này bốn lần một ngày và có một cuộc sống bình thường. Nhưng người ta có lý do chính đáng để mong đợi nhiều hơn, vì mỗi phiên dường như đang huấn luyện cho bộ não của cô để kéo dài khoảng thời gian còn sót lại hơn. Nếu điều này tiếp tục…

. . . Nó đã tiếp tục. Trong năm tới Cheryl đeo thiết bị thường xuyên hơn để xây dựng hiệu ứng còn sót lại của cô. Hiệu ứng còn sót lại của cô tiến triển đến nhiều giờ, nhiều ngày và sau đó đến tận bốn tháng. Giờ đây cô ấy hoàn toàn không sử dụng thiết bị và không còn xem mình là một Wobbler nữa. Năm 1969, Nature, tạp chí khoa học hàng đầu của châu Âu, đã xuất bản một bài báo ngắn mang cảm giác của khoa học viễn tưởng. Tác giả chính của nó, Paul Bach-y-Rita, vừa là nhà khoa học cơ bản, vừa là bác sỹ phục hồi chức năng— một sự kết hợp hiếm thấy. Bài báo mô tả về một loại thiết bị cho phép những người mù bẩm sinh nhìn thấy được. Tất cả những người này đều bị tổn thương võng mạc và được xem là hoàn toàn không thể điều trị được.

Bài báo của tờ Nature được thuật lại trên tờ New York Times, Newsweek, và Life, nhưng có lẽ vì tuyên bố này nghe có vẻ khó tin quá, thiết bị và nhà phát minh ra nó sớm bị quên lãng.

Kèm theo bài báo là hình ảnh của một cỗ máy trông kỳ quái— một chiếc ghế dùng trong nha khoa lớn, cũ với lưng rung, một mớ dây và máy tính cồng kềnh. Toàn bộ thiết bị được làm từ các bộ phận đúc kết hợp với các thiết bị điện tử của thập niên, nặng bốn trăm pounds.

Một người mù bẩm sinh— một người chưa từng có bất cứ kinh nghiệm nào về thị giác— ngồi trên ghế, đằng sau một chiếc máy ảnh lớn có kích thước như của những người sử dụng nó trong các phòng thu truyền hình vào thời điểm đó. Anh ta “quét” một cảnh trước mặt bằng cách quay tay để di chuyển máy ảnh, điều này đã gửi tín hiệu điện của hình ảnh đến một máy tính xử lý chúng. Sau đó, các tín hiệu điện được truyền đến bốn trăm bộ kích thích rung, được sắp xếp thành các hàng trên một tấm kim loại gắn vào bên trong lưng ghế, do vậy các kích thích nằm trên da của người mù. Các kích thích vận hành như những điểm ảnh rung cho các phần tối của khung cảnh và đứng yên cho các cảnh sáng. Thiết bị “thị giác-xúc giác” này, như cách họ gọi nó, cho phép người mù nhận diện các khuôn mặt và bóng tối, và phân biệt được vật thể nào ở gần và xa. Nó cho phép họ khám phá bối cảnh và quan sát cách các vật thể dường như thay đổi hình dạng tùy thuộc vào góc mà chúng được xem. Sáu đối tượng của thí nghiệm học cách nhận ra những vật thể như một chiếc điện thoại, ngay cả khi nó bị che một phần bởi một chiếc bình. Đây là những năm 1960, họ thậm chí còn học cách nhận ra một bức ảnh của siêu mẫu biếng ăn Twiggy.

Tất cả những người sử dụng thiết bị thị giác-xúc giác tương đối cồng kềnh này đều có trải nghiệm nhận thức đáng chú ý, khi họ đi từ những cảm giác về xúc giác đến “nhìn thấy” con người và đồ vật.

Với một chút luyện tập, các đối tượng mù bắt đầu trải nghiệm được không gian phía trước họ như không gian ba chiều, mặc dù thông tin được nhập từ bảng hai chiều trên lưng họ. Nếu có ai đó ném quả bóng về phía máy ảnh, đối tượng sẽ tự động nhảy lùi lại để tránh quả bóng. Nếu tấm kích thích rung được chuyển từ lưng sang bụng của họ thì đối tượng vẫn sẽ cảm nhận chính xác cảnh đó là đang xảy ra trước máy ảnh. Nếu bị cù lét gần các kích thích, thì họ vẫn không bị nhầm lẫn giữa cái cù lét với một kích thích thị giác. Trải nghiệm nhận thức tinh thần của họ diễn ra không phải trên bề mặt làn da mà trong thế giới. Và nhận thức của họ rất phức tạp. Khi luyện tập, các đối tượng có thể di chuyển máy ảnh xung quanh và nói những câu đại loại như “Đó là Betty; hôm nay cô ấy đang thả tóc xuống và không đeo kính; miệng cô ấy mở ra và cô ấy đang di chuyển tay phải của cô từ bên trái sang phía sau đầu cô,” Đúng, độ phân giải thường kém, nhưng Bach-y-Rita sẽ lý giải rằng, thị giác không cần phải hoàn hảo để là thị giác. “Khi chúng ta bước xuống một con đường đầy sương mù và nhìn thấy đường viền của một tòa nhà,” anh sẽ hỏi, “Chúng ta nhìn thấy nó ít đi chút nào vì thiếu độ phân giải hay không? Khi chúng ta nhìn thấy thứ gì đó có màu trắng và đen, chẳng lẽ chúng ta không nhìn thấy nó vì nó thiếu màu sắc à?”

Cỗ máy bị lãng quên này là một trong những ứng dụng đầu tiên và táo bạo nhất của sự dẻo dai thần kinh— một nỗ lực sử dụng một giác quan để thay thế cho một giác quan khác — và nó có hiệu quả. Nhưng điều đó được cho là không hợp lý và bị bỏ qua bởi vì quan điểm khoa học thời đó cho rằng cấu trúc của não bộ là cố định, và các giác quan của chúng ta, những con đường mà trải nghiệm đi vào tâm trí của chúng ta, là rất khó khăn. Ý tưởng này, vẫn còn nhiều tín đồ, được gọi là “chủ nghĩa cục bộ” (localizationism.) Nó liên quan chặt chẽ với ý tưởng cho rằng não bộ giống như một cỗ máy phức tạp, được tạo thành từ nhiều bộ phận, mỗi bộ phận thực hiện một chức năng tinh thần cụ thể và tồn tại ở một vị trí được xác định trước về mặt di truyền hoặc vị trí được cài đặt— do đó có tên gọi. Một bộ não được cài đặt, và trong đó mỗi chức năng tinh thần có một vị trí nghiêm ngặt, không có chỗ cho sự dẻo dai.

Ý tưởng về bộ não như cái máy đã truyền cảm hứng và dẫn dắt khoa học thần kinh kể từ khi nó được đề xuất lần đầu tiên vào thế kỷ 17, thay thế cho những quan niệm huyền bí hơn về linh hồn và thế xác. Các nhà khoa học, bị ấn tượng bởi những khám phá của Galileo (1564-1642), người đã chỉ ra rằng các hành tình có thể được hiểu là các vật thể vô tri giác di chuyển bởi các lực cơ học, dần dần tin rằng toàn bộ thiên nhiên vận hành như một chiếc đồng hồ vũ trụ to lớn, tuân theo các định luật vật lý, và họ bắt đầu giải thích một cách máy móc về các sinh vật sống riêng lẻ, bao gồm cả các cơ quan trong cơ thể chúng ta, như thể chúng cũng là máy móc. Quan niệm cho rằng tất cả thiên nhiên giống như bộ máy to lớn, và các cơ quan của chúng ta giống như máy móc, đã thay thế cho quan niệm thời Hy Lạp hai ngàn năm tuổi, coi tất cả thiên nhiên như một tổ chức sống khổng lồ, và các cơ quan trong cơ thể của chúng ta là bất cứ thứ gì ngoại trừ những cỗ máy vô tri giác. Nhưng thành tựu lớn đầu tiên của “sinh học cơ học” mới này là một thành tựu tuyệt vời và nguyên bản. William Harvey (1578-1657), nhà nghiên cứu về giải phẫu ở Padua, Italy, nơi Galileo giảng dạy, đã phát hiện ra cách máu lưu thông qua cơ thể chúng ta và chứng minh rằng quả tim hoạt động như một cái máy bơm, tất nhiên đó là một cỗ máy đơn giản— nghĩa là phải tuân theo các quy luật cơ học của chuyển động.

Đọc ngay: Những hiểu lầm tai hại về bộ não

Theo sau Harvey, nhà triết học người Pháp Rene Descartes (1596-1650) cho rằng não bộ và hệ thần kinh cũng hoạt động giống như một cái máy bơm. Ông cho rằng các dây thần kinh của chúng ta thực sự là các ống đi từ tứ chi đến não và lưng. Ông là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về cách các phản xạ hoạt động, đề xuất rằng khi một người chạm vào da, một chất lỏng trong ống thần kinh chảy vào não và được “phản xạ” một cách cơ học xuống các dây thần kinh để di chuyển các cơ. Nghe có vẻ thô thiển, ông ấy không quá sai. Các nhà khoa học đã sớm hoàn thiện bức tranh nguyên thủy của mình, lập luận rằng không phải một số chất lỏng mà là một dòng điện di chuyển qua các dây thần kinh. Quan niệm của Descartes về bộ não như một cỗ máy phức tạp lên đến đỉnh điểm trong quan niệm hiện tại của chúng ta về bộ não như một cái máy tính và trong chủ nghĩa cục bộ. Giống như một cỗ máy, bộ não được coi là được tạo thành từ các bộ phận, mỗi bộ phận nằm ở một vị trí được chỉ định, mỗi bộ phận thực hiện một chức năng duy nhất, cho nên nếu một trong những bộ phận đó bị hỏng thì không thể thay thế được nó; rốt cuộc, máy móc không phát triển các bộ phận mới.

Chủ nghĩa cục bộ cũng được áp dụng cho các giác quan, đưa ra giả thuyết rằng mỗi giác quan của chúng ta— thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác, sự cân bằng— có một tế bào thụ thể chuyên phát hiện một trong những dạng năng lượng khác nhau xung quanh chúng ta. Khi được kích thích, các tế bào thụ thể này gửi tín hiệu điện dọc theo dây thần kinh của chúng đến một vùng não cụ thể xử lý cảm giác đó. Hầu hết các nhà khoa học tin rằng những vùng não này chuyên biệt đến mức một vùng không bao giờ có thể làm công việc của vùng khác.

Gần như cô lập với các đồng nghiệp của mình, Paul Bach-y-Rita đã bác bỏ những tuyên bố của những người theo chủ nghĩa cục bộ. Ông phát hiện ra các giác quan của chúng ta có bản chất dẻo dai bất ngờ, và nếu một giác quan bị tổn thương, đôi khi giác quan khác có thể tiếp quản nó, một quá trình mà ông gọi là “sự thay thế giác quan.” Ông đã phát triển các cách thức kích hoạt sự thay thế giác quan và các thiết bị mang đến cho chúng ta “siêu giác quan.” Bằng việc khám pha ra hệ thần kinh có thể thích nghi với việc nhìn bằng máy ảnh thay vì võng mạc, Bach-y-Rita đã đặt nền móng cho hy vọng lớn nhất của người mù: cấy ghép võng mạc, có thể được phẫu thuật đưa vào mắt.

Không giống như hầu hết các nhà khoa học, những người gắn bó với một lĩnh vực, Bach-y-Rita đã trở thành một chuyên gia trong nhiều lĩnh vực-y học, tâm thần dược học, sinh lý thần kinh mắt (nghiên cứu về cơ mắt), sinh lý thần kinh thị giác (nghiên cứu về thị giác và hệ thần kinh), và kỹ thuật y sinh. Ông ấy đi theo các ý tưởng đến bất kỳ nơi đâu mà chúng đưa ông đến. Ông nói được năm thứ tiếng và đã sống được một thời gian dài ở Ý, Đức, Pháp, Mexico, Thụy Điển và khắp Hoa Kỳ. Ông từng làm việc trong phòng thí nghiệm của các nhà khoa học lớn và những người đoạt giải Nobel, nhưng ông không bao giờ quan tâm đến những gì người khác nghĩ và không tham gia vào các trò chơi chính trị như nhiều nhà nghiên cứu khác để được thăng tiến. Sau khi trở thành một bác sỹ, ông từ bỏ ngành y và chuyển sang nghiên cứu cơ bản. Ông đặt ra những câu hỏi thách thức lẽ thường, chẳng hạn như “Đôi mắt có cần thiết cho thị giác không, hay đôi tai để nghe, lưỡi để nếm, mũi để ngửi không?” Và sau đó, khi ông bốn mươi bốn tuổi, trí óc hoạt động không ngừng nghỉ, ông quay lại với ngành y và làm bác sỹ nội trú với những ngày dài vô tận và những đêm không ngủ, làm trong một chuyên môn đáng sợ nhất trong tất cả: thuốc phục hồi chức năng. Tham vọng của ông là biến một sự tù túng của trí tuệ thành một ngành khoa học bằng cách áp dụng vào đó những gì ông đã học được về tính dẻo.

Bach-y-Rita là một người đàn ông rất khiêm tốn. Ông thích mặc những bộ đồ trị giá năm đôla và quần áo Salvation Army bất cứ lúc nào vợ ông không để mắt đến. Ông lái chiếc oto mười hai tuổi rỉ sét, vợ ông là một người mẫu mới Passat.

Ông có đầu tóc dày, gợn sóng, nói chuyện nhẹ nhàng và nhanh, có làn da đen của một người đàn ông Địa Trung hải gốc Tây ban Nha và Do Thái, và trông trẻ hơn rất nhiều so với độ tuổi sáu mươi chín của mình. Ông rất thông minh nhưng tỏa ra sự ấm áp như một cậu bé với vợ mình, Esther, một người gốc Mexico.

Ông đã quen làm người ngoài cuộc. Ông lớn lên ở vùng Bronx, cao bốn feet (khoảng 1m22) khi vào trung học vì một căn bệnh bí ấn đã kìm hãm sự phát triển của ông ta trong tám năm và hai lần được chẩn đoán sơ bộ mắc bệnh bạch cầu. Ông bị những học sinh lớn hơn đánh đập ức hiếp mỗi ngày và trong suốt những năm tháng đi học đó, ông đã phát triển một ngưỡng chịu đau cực kì cao. Khi ông mười hai tuổi, ruột thừa ông bị vỡ và một căn bệnh bí ẩn, một dạng viêm ruột thừa mãn tính hiếm gặp, được chẩn đoán chính xác. Ông cao thêm tám inches và lần đầu tiên đánh nhau giành phần thắng.

Chúng tôi đang lái xe qua Madison, Wisconsin, nhà ông ấy khi ông ấy không có ở Mexico.

“Tôi có thể kết nối mọi thứ với bất cứ điều gì.” Ông ấy cười. “Chúng ta nhìn bằng bộ não của mình chứ không phải bằng mắt,” ông nói.

Tuyên bố này đi ngược lại với quan điểm thông thường rằng chúng ta nhìn thấy bằng đôi mắt của mình, nghe bằng đôi tai, nếm bằng lưỡi, ngửi bằng mũi và cảm nhận bằng da. Ai sẽ thách thức những sự thật như vậy? Nhưng đối với Bach-y-Rita, đôi mắt của chúng ta chỉ cảm nhận được những thay đổi trong năng lượng ánh sáng; chính bộ não của chúng ta mới nhận thức được và do đó nhìn thấy.

Cách thức một cảm giác đi vào não bộ thì không quan trọng đối với Bach-y-Rita. “Khi một người mù sử dụng gậy, anh ta quét nó qua lại và chỉ có một điểm duy nhất, đưa cho anh ta thông tin qua các thụ thể da trong tay, tuy nhiên việc quét này cho phép anh ta phân loại được vị trí của cửa, hoặc cái ghế. Sau đó, anh ta sử dụng thông tin này để hướng dẫn mình đến ghế ngồi. Mặc dù cảm biến bàn tay của anh ta là nơi anh ta lấy thông tin và nơi cây gậy ‘tương tác’ với anh, nhưng điều anh ta chủ quan cảm nhận không phải là áp lực của cây gậy trong tay mà là cách bố trí của căn phòng: ghế, tường, chân, không gian ba chiều. Bề mặt thụ thể thực tế trong tay giờ trở thành một rơ le cung cấp thông tin, một cổng dữ liệu. Bề mặt thụ thể đánh mất đặc tính của nó trong quá trình.

Bach-y-Rita xác định rằng da và các thụ thể cảm ứng của nó có thể thay thế cho võng mạc, bởi vì cả da và võng mạc đều là những tấm hai chiều, được bao phủ bởi các thụ thể cảm giác, cho phép một “hình ảnh” hình thành trên chúng.

Tìm ra một cổng dữ liệu mới, hoặc cách thức để làm cảm giác đến được với bộ não là một chuyện. Nhưng để não giải mã những cảm giác da này và biến chúng thành hình ảnh lại là một chuyện khác. Để làm điều đó, bộ não phải học một cái gì đó mới, và phần não dành cho xử lý cảm ứng phải thích ứng với các tín hiệu mới. Khả năng thích ứng này ngụ ý rằng bộ não là ni-lông/dẻo theo nghĩa là nó có thể tổ chức lại hệ thống nhận thức cảm giác của nó.

Nếu bộ não có thể tự tổ chức lại bản thân nó, thì chủ nghĩa cục bộ đơn giản không thể là hình ảnh chính xác của bộ não. Lúc đầu, ngay cả Bach-y-Rita cũng là một người theo chủ nghĩa cục bộ, xúc động trước những thành tựu tuyệt vời của nó. Chủ nghĩa cục bộ quan trọng lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1861, khi Paul Broca, một bác sĩ phẫu thuật, có một bệnh nhân đột quỵ mất khả năng nói và chỉ có thể thốt ra một từ. Bất kể anh ta được hỏi gì, người đàn ông tội nghiệp này chỉ có thể đáp lại: “Tan, tan.” Khi anh ta chết, Broca mổ não anh ta và tìm thấy mô bị tổn thương ở thùy trán trái. Những người hoài nghi ngờ rằng lời nói có thể được tập trung vào một phần của não cho đến khi Broca cho họ xem mô bị thương, sau đó báo cáo về những bệnh nhân khác cũng bị mất khả năng nói và bị tổn thương ở cùng một vị trí. Nơi đó được gọi là “khu vực của Broca” và được cho là phối hợp các chuyển động của cơ môi và lưỡi. Ngay sau đó, một bác sĩ khác, Carl Wernicke, đã kết nối tổn thương ở một vùng não khác xa hơn với một vấn đề khác: không có khả năng hiểu ngôn ngữ. Wernicke cho rằng khu vực bị tổn thương chịu trách nhiệm cho các biểu hiện tinh thần của từ ngữ và sự lĩnh hội, nhận thức. Nó được gọi là “khu vực của Wernicke.” Trong một trăm năm tiếp theo, chủ nghĩa cục bộ trở nên cụ thể hơn khi nghiên cứu mới cải tiến bản đồ não.

Thật không may, trường hợp của chủ nghĩa cục bộ đã sớm bị phóng đại. Nó đi từ một loạt các mối tương quan thú vị (các quan sát thấy sự tổn thương ở các vùng não cụ thể nào đó dẫn đến mất các chức năng tinh thần cụ thể) đến một lý thuyết chung tuyên bố rằng mọi chức năng não chỉ nằm ở một vị trí cố định— một ý tưởng được tóm tắt bởi cụm từ “một chức năng, một vị trí “, nghĩa là nếu một phần bị hỏng, thì não không thể tự tổ chức lại bản thân nó hoặc phục hồi chức năng bị mất đó.

Một thời kỳ đen tối cho tính dẻo bắt đầu, và bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào cho quan điểm “một chức năng, một vị trí” đều bị bỏ qua. Năm 1868, Jules Cotard đã nghiên cứu những đứa trẻ mắc bệnh về não nghiêm trọng từ thời thơ ấu, trong đó bán cầu não trái (bao gồm cả khu vực của Broca) bị héo mòn. Tuy nhiên, những đứa trẻ vẫn có thể nói chuyện bình thường. Điều này có nghĩa là ngay cả khi lời nói có xu hướng được xử lý ở bán cầu não trái, như Broca tuyên bố, bộ não có thể đủ dẻo để tự tổ chức lại bản thân nó, nếu cần thiết. Năm 1876 Otto Soltmann đã loại bỏ vỏ não vận động khỏi chó và thỏ sơ sinh – phần não được cho là chịu trách nhiệm cho sự di chuyển – nhưng vẫn thấy chúng vẫn có thể di chuyển. Những phát hiện này bị nhấn chìm trong làn sóng ủng hộ chủ nghĩa cục bộ.

Bach-y-Rita đã nghi ngờ chủ nghĩa cục bộ trong khi đang ở Đức vào đầu những năm 1960. Ông đã tham gia vào một nhóm nghiên cứu về cách thị giác hoạt động bằng cách đo sự phóng điện của điện cực từ khu vực xử lý thị giác của não mèo. Nhóm nghiên cứu kỳ vọng rằng khi họ cho con mèo xem hình ảnh, điện cực trong khu vực xử lý hình ảnh của nó sẽ phát ra một xung điện, cho thấy nó đang xử lý hình ảnh đó. Và nó đã xảy ra. Nhưng khi chân mèo vô tình bị vuốt ve, vùng thị giác cũng bắn xung điện, cho thấy nó cũng đang xử lý xúc giác. Và họ phát hiện ra rằng khu vực thị giác cũng hoạt động khi con mèo nghe thấy âm thanh.

Bach-y-Rita bắt đầu nghĩ rằng quan điểm của chủ nghĩa cục bộ cho rằng “một chức năng, một vị trí” không thể đúng. Phần “thị giác” trong não của mèo đã xử lý ít nhất hai chức năng khác là chạm/xúc giác và âm thanh. Ông bắt đầu quan niệm phần lớn bộ não là “đa cảm giác” – rằng các khu vực cảm giác của nó có thể xử lý tín hiệu từ nhiều hơn một giác quan.

Điều này có thể xảy ra bởi vì tất cả các thụ thể cảm giác của chúng ta chuyển các loại năng lượng khác nhau từ thế giới bên ngoài, bất kể là nguồn nào, thành các mô hình điện được gửi xuống các dây thần kinh của chúng ta. Những mô hình điện này là ngôn ngữ phổ quát “được nói” bên trong não – không có hình ảnh, âm thanh, mùi vị hay cảm giác di chuyển bên trong các tế bào thần kinh của chúng ta. Bach-y-Rita nhận ra rằng các khu vực xử lý các xung điện này đồng nhất hơn nhiều so với các nhà thần kinh học nghĩ, một niềm tin được củng cố khi nhà thần kinh học Vernon Mountcastle phát hiện ra vỏ não thị giác, thính giác và giác quan đều có cấu trúc xử lý sáu lớp giống nhau. Đối với Bach-y-Rita, điều này có nghĩa là bất kỳ phần nào của vỏ não đều có thể xử lý bất kỳ tín hiệu điện nào được gửi đến nó và rằng các mô-đun não của chúng ta không phải là chuyên biệt.

Trong vài năm tiếp theo, Bach-y-Rita bắt đầu nghiên cứu tất cả các ngoại lệ đối với chủ nghĩa cục bộ. Với kiến ​​thức về ngôn ngữ của mình, ông đào sâu vào các tài liệu khoa học cũ, chưa được dịch và các công trình khoa học được khám phá lại được thực hiện trước khi các phiên bản cứng nhắc hơn của chủ nghĩa cục bộ được nắm giữ. Ông đã phát hiện ra công trình của Marie-Jean-Pierre Flourens, người vào những năm 1820 chứng minh rằng bộ não có thể tự tổ chức lại bản thân nó. Và ông ta đã đọc tác phẩm được trích dẫn nhưng hiếm khi được dịch của Broca bằng tiếng Pháp và thấy rằng ngay cả Broca cũng không đóng cánh cửa đưa đến khám phá tính dẻo của não.

Thành công của cỗ máy thị giác xúc giác của ông đã truyền cảm hứng cho Bach-y-Rita để tái thiết lại bức tranh về bộ não con người của ông. Sau tất cả, không phải cỗ máy của ông ta là phép màu, mà chính là bộ não còn sống, thay đổi và thích nghi với các loại tín hiệu nhân tạo mới. Là một phần của việc tổ chức lại, ông đoán rằng các tín hiệu từ cảm giác chạm (ban đầu được xử lý ở vỏ não cảm giác, gần đỉnh não) được chuyển hướng tới vỏ não thị giác ở phía sau não để xử lý thêm, điều đó có nghĩa là bất kỳ con đường thần kinh nào chạy từ da đến vỏ não thị giác đều đang được phát triển.

Bốn mươi năm trước, khi đế chế của chủ nghĩa cục bộ mở rộng xa hết mức có thể, Bach-y-Rita bắt đầu phản kháng. Ông khen ngợi những thành tựu của chủ nghĩa cục bộ nhưng lập luận rằng “một số lượng lớn bằng chứng cho thấy bộ não bộc lộ cả tính dẻo về giác quan và vận động.” Một trong những bài báo của ông đã bị từ chối xuất bản sáu lần bởi các tạp chí, không phải vì bằng chứng còn đang bị tranh cãi mà vì ông dám đặt từ “dẻo” trong tiêu đề. Sau khi bài báo của ông trên tờ Nature xuất hiện, người cố vấn yêu quý của ông, Ragnar Granit, người đã nhận được giải thưởng Nobel về sinh lý học năm 1965 cho công trình nghiên cứu về võng mạc và ông đã sắp xếp để xuất bản luận án trường y của Bach-y-Rita, đã mời ông đi uống trà. Granit yêu cầu vợ rời khỏi phòng và sau khi khen ngợi công trình nghiên cứu của Bach-y- Rita về cơ mắt, đã hỏi ông – vì muốn tốt cho ông – tại sao ông lại lãng phí thời gian với “món đồ chơi người lớn đó”. Tuy nhiên, Bach-y-Rita vẫn kiên trì và bắt đầu trình bày, trong một loạt sách và hàng trăm bài báo, bằng chứng cho tính dẻo của não bộ và phát triển một lý thuyết để giải thích cách thức hoạt động của nó.

Mối quan tâm sâu sắc nhất của Bach-y-Rita đã trở thành lời giải thích cho tính dẻo, nhưng ông tiếp tục phát minh ra các thiết bị thay thế giác quan. Ông đã làm việc với các kỹ sư để thu nhỏ thiết bị máy ảnh ghế nha sĩ cho người mù. Cái bảng kích thích rung nặng nề, thô kệch được gắn vào lưng giờ đã được thay thế bằng một dải nhựa mỏng như giấy được bọc bằng các điện cực, đường kính của một đồng xu bạc, được đưa vào lưỡi. Lưỡi là thứ mà ông gọi là “giao diện máy-não” lý tưởng, một điểm đi vào não bộ tuyệt vời vì nó không có lớp da chết trên đó. Máy tính cũng bị thu gọn triệt để, và chiếc máy ảnh từng có kích thước của một chiếc vali bây giờ có thể được đeo vào khung của kính mắt.

Ông cũng đang nghiên cứu các phát minh thay thế giác quan khác. Ông đã nhận được tài trợ của NASA để phát triển một chiếc găng tay “cảm giác” điện tử cho các phi hành gia trong không gian. Găng tay không gian hiện tại dày đến mức các phi hành gia khó có thể cảm nhận được các vật thể nhỏ hoặc thực hiện các chuyển động tinh tế. Vì vậy, ở bên ngoài chiếc găng tay, ông đặt các cảm biến điện truyền tín hiệu điện đến tay. Sau đó, ông đem những gì ông học được khi làm găng tay và phát minh ra một chiếc để giúp những người mắc bệnh phong, căn bệnh làm tổn thương da và phá hủy các dây thần kinh ngoại biên khiến cho người mắc phong cùi mất cảm giác ở tay.

Chiếc găng tay này, giống như găng tay của phi hành gia, có cảm biến ở bên ngoài, và nó đã gửi tín hiệu của nó đến một phần da khỏe mạnh – tránh xa bàn tay bị bệnh – nơi các dây thần kinh không bị ảnh hưởng. Làn da khỏe mạnh đó trở thành cổng thông tin cho các cảm giác bàn tay. Sau đó, ông bắt đầu làm việc với một chiếc găng tay cho phép người mù đọc được trên màn hình máy tính, và ông ta thậm chí còn có một dự án sản xuất bao cao su mà ông hy vọng sẽ cho phép các nạn nhân bị chấn thương tủy sống mất cảm giác ở dương vật lại có được cực khoái. Nó dựa trên tiền đề rằng sự hưng phấn tình dục, giống như các trải nghiệm cảm giác khác, là “ở trong não”, vì vậy những cảm giác của chuyển động tình dục mà các cảm biến trên bao cao su bắt được, có thể được chuyển thành các xung điện sau đó có thể được truyền đến phần não xử lý hưng phấn tình dục. Các ứng dụng tiềm năng khác của nghiên cứu của ông bao gồm mang lại cho mọi người “siêu giác quan”, chẳng hạn như tầm nhìn hồng ngoại hoặc khả năng nhìn ban đêm. Ông đã phát triển một thiết bị cho Navy SEAL giúp họ cảm nhận được cơ thể của họ được định hướng dưới nước như thế nào và một thiết bị khác đã được thử nghiệm thành công ở Pháp, cho bác sĩ phẫu thuật biết vị trí chính xác của dao mổ bằng cách gửi tín hiệu từ cảm biến điện tử gắn vào dao mổ đến thiết bị nhỏ gắn liền với lưỡi và não của họ.

Nguyên nhân của sự hiệu biết về khả năng phục hồi của bộ não của Bach-y-Rita nằm ở sự phục hồi của cha ông, nhà thơ và học giả người Catalan Pedro Bach-y-Rita, sau một cơn đột quỵ. Năm 1959 Pedro, khi đó là một người góa vợ sáu mươi lăm tuổi, bị đột quỵ khiến ông bị liệt mặt và một nửa cơ thể và ông không thể nói được.

George, anh trai của Paul, hiện là một bác sĩ tâm thần ở California, được cho biết cha anh không còn hy vọng hồi phục nữa và sẽ phải vào viện. Thay vào đó, George, khi đó là một sinh viên y khoa ở Mexico, đã đưa người cha bị liệt từ New York, nơi anh sống, trở về Mexico để sống cùng anh. Lúc đầu, anh cố gắng sắp xếp phục hồi chức năng cho cha mình tại Bệnh viện American British, nơi chỉ cung cấp một đợt phục hồi bốn tuần thông thường, vì không ai tin rằng não có thể được hưởng lợi từ việc điều trị kéo dài. Sau bốn tuần, cha anh chẳng hề tốt hơn. Ông vẫn bất lực và cần phải có người đỡ đi tắm và vệ sinh, George đã làm với sự giúp đỡ của người làm vườn.

“May mà ông có vóc dáng nhỏ bé, nặng khoảng một trăm mười tám pound và chúng tôi có thể đỡ ông được,” George nói.

George chẳng biết gì về phục hồi chức năng, và sự thiếu hiểu biết của anh ta hóa ra là một ơn trời, bởi vì anh đã thành công bằng cách phá vỡ mọi quy tắc hiện tại của nó, không bị cản trở bởi các lý thuyết bi quan.

“Tôi quyết định rằng thay vì dạy cha tôi đi, tôi sẽ dạy ông bò trước. Tôi nói, Cha bắt đầu bò, cha sẽ phải bò một lần nữa.’ Chúng tôi có những miếng đệm đầu gối cho ông ấy. Lúc đầu, chúng tôi giữ cho ông ấy bò trên bốn chi, nhưng chân tay ông vẫn còn yếu không giữ được tốt, vì vậy đó là cả một sự vật lộn.” Ngay khi Pedro có thể tự hỗ trợ mình phần nào, George sau đó đã cho ông bò bằng vai và cánh tay yếu ớt được đỡ bởi một bức tường. Việc bò bên tường đã diễn ra trong nhiều tháng. Sau đó tôi thậm chí còn cho ông tập bò trong vườn, điều này dẫn đến một số vấn đề với hàng xóm, họ nói rằng điều đó không tử tế, thật khó coi vì khiến giáo sư phải bò như một con chó. Mô hình duy nhất tôi có là cách những đứa bé học. Vì vậy, chúng tôi chơi các trò chơi trên sàn nhà, tôi lăn bi, và ông ấy phải bắt chúng. Hoặc chúng tôi sẽ ném những đồng xu xuống sàn, và ông ấy phải cố gắng nhặt chúng lên bằng tay phải yếu ớt. Tất cả mọi thứ chúng tôi đã cố gắng thực hiện liên quan đến việc biến trải nghiệm cuộc sống bình thường thành các bài tập. Chúng tôi biến chậu rửa thành một bài tập…— đi vòng tròn, mười lăm phút theo chiều kim đồng hồ, mười lăm phút ngược chiều kim đồng hồ.  Có các bước thực hiện, mỗi bước chồng lấp lên bước trước và từng chút một ông ấy trở nên tiến bộ hơn. Sau một thời gian, ông ấy cũng tham gia vào việc thiết kế các bước. Ông ấy muốn đạt đến mức độ có thể ngồi xuống và ăn uống cùng với tôi và các sinh viên y khác.” Chế độ này mất nhiều giờ mỗi ngày, nhưng dần dần Pedro đi từ bò, đến di chuyển bằng đầu gối, đứng, đi, Pedro vật lộn với bài nói chuyện của mình, và sau khoảng ba tháng, có những dấu hiệu cho thấy khả năng nói chuyện của ông đang quay trở lại. Sau vài tháng nữa, ông muốn hồi phục lại khả năng viết. Ông sẽ ngồi trước máy đánh chữ, ngón tay giữa của ông để trên bàn phím, sau đó ông thả toàn bộ cánh tay của mình để đánh nó. Khi ông đã thông thạo việc này, ông sẽ chỉ thả mỗi cổ tay, và cuối cùng là các ngón tay, mỗi lần một ngón tay. Cuối cùng, ông học cách gõ máy bình thường trở lại.

Vào cuối một năm, ông ấy đã hoàn toàn bình phục đủ để Pedro, giờ đã sáu mươi tám tuổi, bắt đầu giảng dạy toàn thời gian một lần nữa tại City College ở New York. Ông yêu công việc này và làm việc cho đến khi ông nghỉ hưu ở tuổi bảy mươi. Sau đó, ông nhận được một công việc giảng dạy tại bang San Francisco, tái hôn và tiếp tục làm việc, đi bộ đường dài và đi du lịch. Ông có cuộc sống năng động thêm bảy năm nữa sau cơn đột quỵ. Trong một chuyến đi thăm bạn bè ở Bogota, Colombia, ông đã đi leo núi cao. Ở độ cao chín ngàn feet, ông lên cơn đau tim và qua đời ngay sau đó. Ông đã bảy mươi hai tuổi. Tôi hỏi George liệu anh có biết được sự phục hồi của cha anh sau một thời gian dài bị đột quỵ là khác thường như thế nào không và liệu anh có nghĩ rằng sự phục hồi này có thể là kết quả của tính dẻo của não bộ.

“Tôi chỉ thấy điều đó trong việc chăm sóc cha. Nhưng Paul, trong những năm sau đó, đã nói về nó theo thuật ngữ của sự dẻo dai thần kinh.

Xác của Pedro được đưa đến San Francisco, nơi Paul đang làm việc. Đó là năm 1965, và vào thời đó, trước khi quét não, khám nghiệm tử thi là thông lệ vì chúng là một cách mà các bác sĩ có thể tìm hiểu về các bệnh về não và về lý do tại sao một bệnh nhân chết. Paul yêu cầu bác sĩ Mary Jane Aguilar thực hiện khám nghiệm tử thi.

Vài ngày sau Mary Jane gọi cho tôi và nói: ‘Paul, qua đây nào. Tôi có vài thứ muốn cho anh xem.’ Khi tôi đến Bệnh viện Stanford cũ, ở đó, trải ra trên bàn, là những lát não của cha tôi trên các slide.’ Anh không nói nên lời.

“Tôi đã cảm thấy ghê tởm, nhưng tôi cũng có thể thấy sự phấn khích của Mary Jane, bởi vì những gì các slide cho thấy là cha tôi đã bị tổn thương rất lớn do cơn đột quỵ của ông và nó chưa bao giờ lành, mặc dù ông đã phục hồi tất cả các chức năng đó. Tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi chết lặng đi. Tôi nghĩ là ‘Hãy nhìn vào tất cả những tổn thương này của ông ấy.’ Và cô ấy nói ‘Làm sao mà ông ấy có thể phục hồi được với chừng này tổn thương?’ Khi nhìn kỹ, Paul thấy rằng tổn thương bảy năm qua của cha mình chủ yếu ở thân não – phần não gần nhất với tủy sống – và các trung tâm não lớn khác trong vỏ não điều khiển sự chuyển động cũng đã bị phá hủy bởi đột quỵ. Chín mươi bảy phần trăm các dây thần kinh chạy từ vỏ não đến cột sống đã bị phá hủy – tổn thương thảm khốc đã khiến ông ấy bị liệt. “Tôi biết rằng điều đó có nghĩa là bằng cách nào đó mà bộ não của ông ấy đã tự tổ chức lại bản thân nó với sự tập luyện mà ông làm cùng với George. Chúng tôi không biết sự phục hồi của ông ấy phi thường ra sao cho đến lúc đó, vì chúng ta không biết được mức độ tổn thương của ông ấy, vì thời đó chưa có máy quét não. Khi người ta phục hồi, chúng ta có xu hướng cho rằng lúc đầu họ thực sự không bị tổn thương nhiều. Cô ấy muốn tôi trở thành đồng tác giả trên bài báo mà cô ấy viết về trường hợp của ông ấy. Tôi không thể.”

Câu chuyện của cha ông ấy là bằng chứng trực tiếp cho thấy sự phục hồi “muộn” có thể xảy ra ngay cả với một tổn thương lớn ở một người già. Nhưng sau khi kiểm tra tổn thương đó và xem xét tài liệu, Paul đã tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy não có thể tự tổ chức lại bản thân nó để phục hồi các chức năng sau khi bị đột quỵ, vào năm 1915, một nhà tâm lý học người Mỹ, Shepherd Ivory Franz, đã cho thấy những bệnh nhân bị liệt trong hai mươi năm có khả năng phục hồi muộn với các bài tập kích thích não bộ.

“Sự phục hồi muộn” của cha ông ấy đã kích hoạt một sự thay đổi nghề nghiệp đối với Bach-y-Rita. Năm bốn mươi bốn tuổi, ông ấy trở lại hành nghề y và làm bác sỹ nội trú trong khoa thần kinh và phục hồi chức năng. Ông ấy hiểu rằng để các bệnh nhân phục hồi thì họ cần có động lực, giống như cha ông ấy, với các bài tập gần giống như các hoạt động trong cuộc sống thực. Ông chuyển hướng chú ý sang việc điều trị đột quỵ, tập trung vào “phục hồi chức năng muộn” giúp mọi người vượt qua các vấn đề thần kinh lớn sau nhiều năm bắt đầu và phát triển các trò chơi video trên máy tính để huấn luyện bệnh nhân đột quỵ cử động lại cánh tay của họ. Và ông bắt đầu tích hợp những hiểu biết của mình về độ dẻo dai vào việc thiết kế bài tập. Các bài tập phục hồi chức năng truyền thống thường kết thúc sau một vài tuần, khi một bệnh nhân ngừng cải thiện, hoặc chậm tiến bộ, và các bác sĩ mất động lực để tiếp tục. Nhưng Bach-y-Rita, dựa trên kiến ​​thức về sự tăng trưởng thần kinh, đã bắt đầu lập luận rằng these learning plateaus chỉ là tạm thời — một phần của chu trình học tập dựa trên tính dẻo – trong đó các giai đoạn học tập được theo sau bởi các giai đoạn củng cố. Mặc dù không có tiến bộ rõ ràng trong giai đoạn củng cố, những thay đổi về mặt sinh học vẫn đang xảy ra bên trong, khi các kỹ năng mới trở nên tự động và cải tiến hơn.

Bach-y-Rita đã phát triển một chương trình dành cho những người có dây thần kinh vận động ở mặt bị tổn thương, những người không thể cử động các cơ mặt và vì vậy không thể nhắm mắt, nói đúng hoặc bộc lộ cảm xúc, khiến họ trông giống như những chiếc máy tự động quái dị. Bach-y-Rita có một trong những dây thần kinh “phụ” thường đi vào lưỡi được phẫu thuật gắn vào cơ mặt của bệnh nhân. Sau đó, ông đã phát triển một chương trình luyện tập não để huấn luyện “dây thần kinh lưỡi” (và đặc biệt là phần não điều khiển nó) hoạt động như một dây thần kinh mặt. Những bệnh nhân này đã học cách thể hiện cảm xúc bình thường trên khuôn mặt, nói và nhắm mắt lại – một ví dụ nữa về khả năng “kết nối mọi thứ với bất cứ điều gì” của Bach-y-Rita.

Ba mươi ba năm sau bài báo trên tờ Nature của Bach-y-Rita, các nhà khoa học sử dụng phiên bản hiện đại nhỏ của máy thị giác xúc giác của ông để đưa bệnh nhân vào máy quét não và xác nhận rằng hình ảnh xúc giác đi vào bệnh nhân thông qua lưỡi của họ quả thật được xử lý trong vỏ não thị giác của họ.

Mọi nghi ngờ rằng các giác quan có thể được xây dựng lại gần đây đã được đặt vào một trong những thí nghiệm về tính dẻo đáng ngạc nhiên nhất của thời đại chúng ta. Nó không chỉ bao gồm việc xây dựng lại những con đường mòn về xúc giác và thị giác, như Bach-y-Rita đã làm, mà còn cả thính giác và thị giác- theo nghĩa đen.

Mriganka Sur, một nhà thần kinh học, đã phẫu thuật tái tạo lại bộ não của một con chồn rất nhỏ. Thông thường các dây thần kinh thị giác chạy từ mắt đến vỏ não thị giác, nhưng Sur đã phẫu thuật chuyển hướng các dây thần kinh thị giác từ thị giác của con chồn đến vỏ não thính giác của nó và phát hiện ra rằng con chồn đã học được cách nhìn. Sử dụng các điện cực được đưa vào não của con chồn, Sur đã chứng minh rằng khi con chồn nhìn thấy, các tế bào thần kinh trong vỏ não thính giác của nó đã phát xung điện và thực hiện quá trình xử lý hình ảnh. Vỏ não thính giác, dẻo dai như Bach-y-Rita luôn tưởng tượng, đã tự tổ chức lại bản thân nó, để nó có cấu trúc như của vỏ não thị giác. Mặc dù những con chồn đã phẫu thuật này không có thị lực 20/20, nhưng chúng có khoảng một phần ba thị lực, hoặc 20/60 – không tệ hơn một số người đeo kính mắt.

Cho đến gần đây, những biến đổi như vậy dường như hoàn toàn không thể giải thích được. Nhưng với Bach-y-Rita, bằng cách cho thấy bộ não của chúng ta linh hoạt hơn so với chủ nghĩa cục bộ thừa nhận, đã giúp tạo ra một quan điểm chính xác hơn về bộ não cho phép những thay đổi như vậy. Trước khi ông ta làm công việc này, chúng ta có một “vỏ não thị giác” trong thùy chẩm để xử lý thị giác và một “vỏ não thính giác” trong thùy thái dương xử lý thính giác.

Từ Bach-y-Rita, chúng ta biết rằng vấn đề phức tạp hơn thế và những vùng não này là những bộ xử lý ni-lông/dẻo, kết nối với nhau và có khả năng xử lý nhiều loại (thông tin) đầu vào bất ngờ.

Cheryl không phải là người duy nhất được hưởng lợi từ chiếc mũ kỳ lạ của Bach-y-Rita. Kể từ đó, nhóm nghiên cứu đã sử dụng thiết bị này để huấn luyện thêm năm mươi bệnh nhân để cải thiện khả năng giữ thăng bằng và đi bộ của họ. Một số người có tổn thương tương tự như Cheryl; số khác thì bị chấn thương não, đột quỵ hoặc bệnh Parkinson.

Tầm quan trọng của Paul Bach-y-Rita nằm ở chỗ ông là người đầu tiên trong thế hệ các nhà khoa học thần kinh của ông vừa hiểu rằng bộ não là có tính dẻo và áp dụng kiến ​​thức này một cách thiết thực để giảm bớt đau khổ của con người. Ẩn ý trong tất cả các nghiên cứu của ông ấy là quan niệm rằng tất cả chúng ta được sinh ra với một bộ não đa năng, có tính thích nghi hơn nhiều so với những gì chúng ta biết.

Khi bộ não của Cheryl phát triển cảm giác tiền đình được tái tạo – hoặc bộ não của những người mù đã phát triển những con đường mới khi họ học cách nhận ra các vật thể, phối cảnh hoặc chuyển động – những thay đổi này không phải là ngoại lệ bí ẩn mà là quy luật: vỏ não cảm giác có tính dẻo và có thể thích nghi .

Khi bộ não của Cheryl học cách phản ứng với thụ thể nhân tạo thay thế cho bộ phận bị tổn thương của cô, nó không làm gì khác thường. Gần đây, công trình của Bach-y- Rita đã truyền cảm hứng cho nhà khoa học nhận thức Andy Clark lập luận một cách dè dặt rằng chúng ta là ” những người máy bẩm sinh”, nghĩa là tính dẻo của bộ não cho phép chúng ta gắn máy móc vào mình, như máy tính và công cụ điện tử, một cách khá tự nhiên. Nhưng bộ não của chúng ta cũng tự tái cấu trúc để đáp ứng đầu vào từ các công cụ đơn giản nhất, chẳng hạn như gậy của người mù. Rốt cuộc, tính dẻo là một tài sản vốn có trong não bộ từ thời tiền sử. Bộ não là một hệ thống mở hơn rất nhiều so với chúng ta tưởng tượng và thiên nhiên đã đi rất xa để giúp chúng ta nhận thức và tiếp nhận thế giới xung quanh. Nó đã trao cho chúng ta một bộ não sinh tồn trong một thế giới luôn thay đổi bằng cách thay đổi chính nó.

Chương 2

Chương 2. Tạo dựng cho mình một bộ não tốt hơn Một người phụ nữ bị dán nhãn “chậm phát triển” đã khám phá ra cách tự chữa lành.

 

Tạo dựng cho mình một bộ não tốt hơn. Một người phụ nữ bị dán nhãn “chậm phát triển” đã khám phá ra cách tự chữa lành.

Các nhà khoa học thực hiện những khám phá quan trọng về bộ não thường là những người có bộ não phi thường, làm việc với những người có bộ não bị tổn thương. Rất hiếm khi người thực hiện một khám phá quan trọng lại là người bị khuyết tật trí tuệ, nhưng có một số trường hợp ngoại lệ. Barbara Arrowsmith Young là một trong số đó.

“Bất đối xứng” là từ mô tả đúng nhất trí óc của cô khi còn là một nữ sinh. Sinh ra ở Toronto vào năm 1951 và lớn lên ở Peterborough, Ontario, Barbara có những vùng não thông minh, xuất sắc khi còn nhỏ – cả trí nhớ thính giác và thị giác của cô đều được kiểm tra ở phân vị thứ chín mươi chín. Thùy trán của cô cực kỳ phát triển, mang lại cho cô phẩm tính kiên trì, bền bỉ, gan dạ. Nhưng bộ não của cô lại “không đối xứng”, có nghĩa là những khả năng đặc biệt này cùng tồn tại với các khu vực chậm phát triển.

Sự bất đối xứng này cũng để lại những hỗn loạn trên cơ thể cô. Mẹ cô đã nói đùa về nó “Bác sỹ sản khoa hẳn đã kéo con ra bằng chân phải” vì chân phải của cô dài hơn chân trái, khiến xương chậu của cô cũng thay đổi. Cánh tay phải của cô không bao giờ duỗi thẳng được, phần cơ thể bên phải của cô lớn hơn phần bên trái, mắt trái kém linh hoạt, cột sống của cô không đối xứng và bị vẹo xương sống.

Cô mắc phải một loại khuyết tật khả năng học tập nghiêm trọng.

Vùng não dành cho lời nói của cô, khu vực của Broca, không hoạt động đúng cách, vì vậy cô gặp khó khăn khi phát âm từ. Cô cũng thiếu năng lực suy luận không gian. Khi chúng ta muốn di chuyển cơ thể của mình trong không gian, chúng ta sử dụng suy luận không gian để xây dựng một con đường tưởng tượng trong đầu mình trước khi thực hiện các chuyển động. Suy luận không gian rất quan trọng để một em bé biết bò, một nha sĩ khoan được răng, một cầu thủ khúc côn cầu lên kế hoạch di chuyển. Một ngày nọ, khi Barbara lên ba, cô quyết định chơi trò đấu sỹ và con bò. Cô là con bò đực và chiếc xe chạy trên đường là áo choàng của đấu sỹ. Cô nghĩ rằng mình sẽ bình tĩnh và tránh nó, nhưng cô đánh giá sai không gian và đâm sầm vào xe khiến đầu cô bị xé toạc. Mẹ cô tuyên bố là bà sẽ rất bất ngờ nếu sang năm Barbara vẫn còn sống.

Suy luận không gian cũng cần thiết để hình thành một bản đồ tinh thần về vị trí của mọi thứ. Chúng ta sử dụng loại suy luận này để sắp xếp bàn làm việc của mình hoặc nhớ lại nơi chúng ta đã để chìa khóa. Barbara mất tất cả những khả năng này. Không có bản đồ tinh thần của mọi vật trong không gian, biến khỏi tầm mắt đồng nghĩa với biến ra khỏi tâm trí, vì vậy cô trở thành một người phải giữ mọi thứ cô đang chơi hoặc làm trước mặt mình, và tủ quần áo của cô thì luôn để mở. Khi ở ngoài trời cô luôn đi lạc.

Cô cũng gặp vấn đề về “vận động”. Tri giác vận động cho phép chúng ta nhận thức được cơ thể hoặc tay chân của mình ở đâu trong không gian, cho phép chúng ta kiểm soát và phối hợp các chuyển động của mình. Nó cũng giúp chúng ta nhận ra đồ vật bằng cách chạm. Nhưng Barbara không bao giờ có thể biết tay hoặc chân của cô đã di chuyển được bao xa ở bên trái. Mặc dù mang tinh thần của tomboy, cô ấy lại vụng về. Cô không thể cầm một cốc nước trái cây trong tay trái mà không làm đổ nó. Cô thường xuyên bị vấp ngã. Cầu thang là thứ nguy hiểm đối với cô. Cô cũng bị giảm cảm giác khi chạm vào bên trái và luôn bị bầm tím ở bên đó. Cuối cùng khi cô học lái xe, cô tiếp tục lái bên trái xe. Cô ấy cũng bị khuyết tật thị giác. Tầm nhìn của cô hẹp đến mức khi cô nhìn vào một trang viết, mỗi lần cô chỉ có thể nhận ra được một vài chữ cái.

Nhưng đây không phải là vấn đề gây suy nhược nhất của cô. Vì phần não bộ giúp hiểu mối quan hệ giữa các biểu tượng không hoạt động bình thường, cô gặp khó khăn trong việc hiểu ngữ pháp, những khái niệm toán học, logic và nguyên nhân và kết quả. Cô không thể phân biệt được giữa “anh trai của cha” và “cha của anh trai.” Giải mã Hai lần phủ định là gì cũng bất khả thi với cô. Cô không thể xem được đồng hồ vì cô không thể hiểu mối quan hệ giữa hai bàn tay. Cô cũng không phân biệt được tay trái với tay phải của mình, không chỉ vì cô ấy thiếu bản đồ không gian, mà bởi vì cô ấy không thể hiểu mối quan hệ giữa “trái” và “phải”. Chỉ với nỗ lực tinh thần phi thường và sự lặp đi lặp lại liên tục, cô mới có thể học cách liên hệ các biểu tượng với nhau.

Cô đảo ngược b, d, q và p, đọc “was” là “saw”, và đọc, viết từ phải sang trái, một khuyết tật gọi là viết chữ ngược. Cô thuận tay phải, nhưng vì cô viết từ phải sang trái, cô đã bôi bẩn những dòng chữ viết của mình. Giáo viên của cô cho rằng cô ấy đã rất cố gắng. Bởi vì cô mắc chứng khó đọc, nên cô đã mắc những lỗi đọc khiến cô ấy phải trả giá đắt. Các anh trai của cô để axit sulfuric làm thí nghiệm trong chai thuốc nhỏ mũi cũ của cô.

Một lần nọ cô quyết định tự điều trị chứng sổ mũi, Barbara đã đọc sai nhãn mới mà họ đã viết. Nằm trên giường với axit chảy vào xoang mũi, cô quá xấu hổ khi kể cho mẹ nghe vụ tai nạn lần này.

Không hiểu được mối quan hệ nguyên nhân và kết quả, cô đã làm những việc kỳ quặc về mặt xã hội vì cô ấy không thể kết nối hành vi với hậu quả của nó. Ở trường mẫu giáo, cô không thể hiểu tại sao, nếu các anh trai của cô học cùng trường, cô lại không thể ra khỏi lớp và đến chơi với họ bất cứ khi nào cô muốn. Cô có thể ghi nhớ các quy trình toán học nhưng không thể hiểu được các khái niệm toán học. Cô có thể nhớ lại rằng năm nhân năm bằng hai mươi lăm nhưng không thể hiểu tại sao. Các giáo viên của cô đã trả lời bằng cách cho cô tập luyện thêm, và cha cô đã dành hàng giờ để dạy kèm cho cô, nhưng không mang lại kết quả. Mẹ cô giơ thẻ flash với các bài toán đơn giản. Bởi vì Barbara không thể giải chúng, cô tìm một nơi để ngồi dưới ánh nắng mặt trời làm mờ giấy, vì vậy cô có thể đọc câu trả lời ở mặt sau. Nhưng những nỗ lực khắc phục đã không chạm đến gốc rễ của vấn đề; họ chỉ làm cho nó thêm đau đớn.

Khao khát học tốt, cô đã vượt qua những năm tháng tiểu học bằng cách học thuộc lòng trong giờ ăn trưa và sau giờ học. Ở trường trung học, thành tích học tập của cô vô cùng thất thường. Cô đã học cách sử dụng trí nhớ để che giấu những khiếm khuyết của mình và bằng sự luyện tập cô có thể nhớ được các trang sự kiện. Trước khi kiểm tra, cô cầu nguyện nếu bài thi dựa vào các số liệu thì cô có thể đạt 100 điểm; còn nếu chúng dựa vào việc hiểu được các mối quan hệ nhân quả thì có lẽ điểm thi của cô sẽ rất thấp.

Barbara không hiểu được thời gian thật, mà chỉ hiểu được sau khi sự kiện đã xảy ra, tức là thời gian chết. Vì cô không hiểu những gì đang xảy ra xung quanh mình trong khi nó đang diễn ra, cô ấy đã mất hàng giờ để nghĩ lại chuyện quá khứ, để làm cho những mảnh vỡ khó hiểu của nó kết hợp lại với nhau và trở nên dễ hiểu. Cô phải phát lại những đoạn hội thoại đơn giản, hội thoại trong phim, và lời bài hát hai mươi lần trong đầu vì đến khi họ nói tới câu cuối, cô lại không còn nhớ những gì họ nói lúc đầu.

Sự phát triển cảm xúc của cô cũng gặp khó khăn. Vì cô ấy gặp rắc rối với logic nên cô không thể nhận ra sự mâu thuẫn khi lắng nghe những người ăn nói trôi chảy và vì thế cô không biết chắc được nên tin tưởng vào ai. Tình bạn cũng rất khó khăn và cô không thể có nhiều hơn một mối quan hệ tại một thời điểm.

Nhưng điều khiến cô khó chịu nhất là sự hoài nghi thường trực và sự không chắc chắn trong cảm nhận của cô về mọi thứ. Cô cảm nhận được ý nghĩa ở khắp mọi nơi nhưng không bao giờ có thể xác minh nó. Phương châm của cô là “Tôi không hiểu.” Cô tự nhủ: “Tôi sống trong sương mù và thế giới này không vững chắc hơn một cây kẹo bông.” Giống như nhiều đứa trẻ bị khuyết tật học tập nghiêm trọng, cô bắt đầu nghĩ mình có thể bị điên.

Barbara lớn lên trong thời kỳ mà ít có sự hỗ trợ dành cho người bị khuyết tật học tập.

“Vào những năm 1950, tại một thị trấn nhỏ như Peterborough, bạn không nói về những điều như vậy,” cô cho hay. “Thái độ là, bạn có làm được hay không. Không có các giáo viên chuyên biệt, không thăm khám chuyên khoa hoặc nhà tâm lý. Thuật ngữ ‘khuyết tật học tập’ sẽ không được sử dụng rộng rãi trong hai thập kỷ nữa. Giáo viên hồi lớp một của tôi nói với cha mẹ tôi là tôi đang có ‘một trở ngại tâm thần’ và tôi sẽ không bao giờ học được theo cách của những đứa trẻ khác. Cụ thể, rõ ràng như vậy đấy. Bạn là người sáng dạ, trung bình, chậm chạp hoặc chậm phát triển trí tuệ.”

Nếu bạn bị thiểu năng trí tuệ, bạn đã được đưa vào “các lớp cơ hội”. Nhưng đó không phải là nơi dành cho một cô gái có trí nhớ tuyệt vời có thể đạt điểm cao nhất trong các bài kiểm tra từ vựng. Người bạn thời thơ ấu của Barbara, Donald Frost, hiện là một nhà điêu khắc, nói, “Cô ấy đã chịu đựng áp lực học tập không thể tin nổi. Cả nhà Young đều là những người đạt thành tựu cao. Cha cô, Jack, là một kỹ sư điện và nhà phát minh với ba mươi bốn bằng sáng chế cho General Electric Canada. Mẹ cô, Mary, thì có thái độ: Bạn sẽ thành công; đó là điều chắc chắn,’ và ‘Nếu bạn đang gặp một vấn đề nào đó, hãy sửa nó.’ Barbara luôn cực kỳ nhạy cảm, ấm áp và chu đáo,” Frost tiếp tục “nhưng cô ấy đã che giấu những vấn đề của mình rất tốt. Cô im lặng, giữ bí mật. Trong những năm sau chiến tranh, lòng chính trực được hiểu là bạn không thu hút sự chú ý của mọi người vào những khuyết tật của bạn nhiều hơn so với những hột mụn trên mặt bạn.”

Barbara hướng theo chuyên ngành phát triển trẻ em, hy vọng bằng cách nào nó giải quyết được vấn đề của bản thân. Là một sinh viên tại trường đại học Guelph, những cách biệt trí tuệ to lớn của cô lại bộc lộ rõ. Nhưng may mắn thay, các giáo viên của cô thấy rằng cô có một khả năng vượt trội trong việc nhận ra những tín hiệu phi ngôn ngữ trong phòng thí nghiệm quan sát trẻ em, và cô được mời dạy khóa học. Cô cảm thấy có điều gì đó sai sai. Sau đó cô được nhận vào học cao học tại Viện Nghiên cứu Giáo dục Ontario (OISE). Hầu hết các sinh viên đọc một bài nghiên cứu một hoặc hai lần, nhưng thông thường Barbara phải đọc một bài tới hai mươi lần cũng như những nguồn tham khảo của nó để hiểu sơ qua ý nghĩa của nó. Cô vẫn sống sót dù chỉ ngủ bốn tiếng mỗi đêm. Vì Barbara rất thông minh, xuất sắc trong nhiều cách, và rất giỏi trong việc quan sát trẻ em, các giảng viên ở trường cao học của cô gần như không tin nổi chuyện cô bị khuyết tật. Chỉ có Joshua Cohen là hiểu được. Anh là một học sinh tài năng nhưng bị khuyết tật học tập khác tại OISE. Anh điều hành một phòng khám nhỏ dành cho trẻ em khuyết tật học tập sử dụng phương pháp điều trị theo tiêu chuẩn, “sự bù trừ,” dựa trên lý thuyết được chấp nhận thời đó; một khi các tế bào não chết hoặc không phát triển, thì chúng không thể phục hồi. Sự bù trừ tìm cách cải thiện vấn đề. Những người gặp khó khăn trong việc đọc thì được cho nghe các băng thu âm. Những người “chậm chạp” được cho nhiều thời gian hơn để làm test. Những ai gặp khó khăn trong việc đi theo một cuộc tranh luận thì được yêu cầu hãy đánh dấu những ý chính bằng màu sắc. Joshua đã thiết kế một chương trình bù trừ cho Barbara, nhưng cô thấy nó quá tốn thời gian. Thêm nữa, luận án của cô, một nghiên cứu về trẻ em bị khuyết tật học tập được điều trị bằng sự bù trừ tại phòng khám OISE, cho thấy hầu hết chúng không thực sự cải thiện. Và bản thân cô cũng có quá nhiều khiếm khuyết đến nỗi đôi lúc cô thấy khó mà tìm thấy những chức năng khỏe mạnh nào có thể bù trừ cho những khiếm khuyết của cô. Bởi vì cô đã thành công trong việc phát triển trí nhớ của mình, cô nói với Joshua rằng cô nghĩ phải có cách tốt hơn.

Một ngày nọ, Joshua đề nghị cô tìm đọc một số cuốn sách của Alexander Luria mà anh đang đọc. Cô đã giải quyết chúng, vượt qua những đoạn khó nhằn vô số lần, đặc biệt là một phần về Những vấn đề cơ bản về ngôn ngữ thần kinh của Luria về những người bị đột quỵ hoặc bị tổn thương gặp rắc rối với ngữ pháp, logic và xem đồng hồ. Luria, sinh năm 1902, vào thời kỳ cách mạng Nga. Ông rất quan tâm đến phân tâm học, từng trao đổi thư từ với Freud, và đã viết các bài báo về kỹ thuật phân tâm học của “liên tưởng tự do,” trong đó bệnh nhân nói mọi thứ xuất hiện trong tâm trí họ. Mục tiêu của ông là phát triển các phương pháp khách quan để đánh giá các ý tưởng của Freud. Khi còn ở tuổi đôi mươi, ông đã phát minh ra mô hình của máy phát hiện nói dối. Khi cuộc thanh trừng vĩ đại của thời đại Stalin bắt đầu, phân tâm học trở thành khoa học bịp bợm và Luria bị tố cáo. Ông đã công khai thừa nhận mắc phải “một số sai lầm về ý thức hệ”. Sau đó, để thoát khỏi quan điểm đó, ông đã đến trường y.

Alexander Luria

Nhưng ông chưa hoàn toàn kết thúc với phân tâm học. Dù không gây được sự chú ý đến công việc của mình, nhưng ông đã tích hợp các khía cạnh của phương pháp phân tâm học và tâm lý học vào thần kinh học, trở thành người sáng lập khoa tâm lý học thần kinh. Ca phân tích tâm lý của ông ấy, thay vì viết ngắn gọn về các triệu chứng, thì ông mô tả rất dài về các bệnh nhân của mình. Như Oliver Sacks đã viết, ” Ca phân tích tâm lý của Luria, quả thực, chỉ có thể được so sánh với Freud về độ chính xác, sức sống, sự giàu có và độ sâu của chi tiết.” Một trong những cuốn sách của Luria, The Man with a Shattered World (Người đàn ông với thế giới tan vỡ), là bản tóm tắt và bình luận về cuốn nhật ký của một bệnh nhân mắc phải tình trạng rất kỳ dị.

Vào cuối tháng 5 năm 1943, đồng chí Lyova Zazetsky, một người đàn ông trông giống như một cậu bé, đã đến văn phòng của Luria trong bệnh viện phục hồi chức năng nơi ông đang làm việc. Zazetsky là một trung úy trẻ người Nga vừa bị thương trong trận chiến Smolensk, do quân Nga trang bị yếu kém, đã bị quăng vào cỗ máy chiến tranh của Đức Quốc xã xâm lược. Anh ta bị một viên đạn bắn vào đầu, với lực sát thương lớn ở bên trái, nằm sâu trong não. Một thời gian dài anh nằm hôn mê. Khi Zazetsky tỉnh lại, các triệu chứng của anh ta rất kỳ quặc. Những mảnh đạn đã nằm trong phần não bộ có chức năng giúp anh hiểu mối quan hệ giữa các biểu tượng. Anh ta không thể hiểu được logic, nguyên nhân và kết quả, hoặc các mối quan hệ không gian. Anh ta không thể phân biệt bên trái của mình với bên phải của mình. Anh ta không thể hiểu các yếu tố của ngữ pháp xử lý các mối quan hệ. Các giới từ như “in,” “out,” “before,” “after,” “with,”  ‘without” đã trở nên vô nghĩa đối với anh. Anh ta không thể hiểu toàn bộ một từ, hiểu toàn bộ câu hoặc nhớ lại được một ký ức hoàn chỉnh vì để làm được cần phải liên kết các biểu tượng lại với nhau. Nhưng anh ấy chỉ có thể nắm bắt được những mảnh biểu tượng thoáng qua. Tuy nhiên, thùy trán của anh ấy— cho phép anh ấy tìm ra những gì có liên quan và lên kế hoạch, lên chiến lược, hình thành ý định và theo đuổi chúng — không bị tổn thương, vì vậy anh ấy có khả năng nhận ra khuyết điểm của mình và mong muốn khắc phục chúng. Dù anh ấy không thể đọc được, phần lớn là một hoạt động nhận thức, nhưng anh có thể viết, vì đó là một hoạt động có chủ ý. Anh bắt đầu viết một cuốn nhật ký I’ll Fight On (Tôi sẽ chiến đấu) dài tới ba ngàn trang. “Tôi đã bị giết vào ngày 2 tháng 3 năm 1943,” anh viết, “nhưng nhờ một số sức mạnh quan trọng của cơ thể/tổ chức, tôi đã sống sót một cách kỳ diệu.”

Hơn ba mươi năm, Luria quan sát anh ta và suy nghĩ về cách vết thương của Zazetsky ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần của anh ta. Ông chứng kiến cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của Zazetsky “để sống chứ không phải chỉ tồn tại.”

Đọc nhật ký của Zazetsky, Barbara nghĩ “Anh ấy đang mô tả cuộc sống của tôi.”

“Tôi biết từ này là gì? ‘mẹ’ và ‘con gái’ là gì nhưng không hiểu được cách diễn đạt ‘con gái của mẹ’, Zazetsky viết. “Những cách diễn đạt như ‘con gái của mẹ’ và ‘mẹ của con gái’ nghe có vẻ giống tôi. Tôi cũng từng gặp rắc rối với những cách diễn đạt kiểu như thế này ‘Con voi có to hơn con ruồi không?’ Tất cả những gì tôi có thể nhận ra là một con ruồi thì nhỏ và một con voi thì to, nhưng tôi không hiểu được các từ ‘lớn hơn’ và ‘nhỏ hơn’.

Trong khi xem một bộ phim, Zazetsky đã viết, “trước khi tôi có cơ hội hiểu những gì các diễn viên đang nói, thì phim lại chuyển sang một cảnh mới.”

Luria bắt đầu giải thích vấn đề. Viên đạn của Zazetsky nằm ở ở bán cầu não trái, tại chỗ giao nhau của ba khu vực tri giác chính nơi thùy thái dương (thường xử lý âm thanh và ngôn ngữ), thùy chẩm (thường xử lý hình ảnh thị giác) và thùy đỉnh (thường xử lý các mối quan hệ không gian và tích hợp thông tin từ các giác quan khác nhau). Tại ngã ba này, đầu vào tri giác từ ba khu vực đó được kết hợp và liên kết. Trong khi Zazetsky có thể nhận thức đúng đắn, Luria nhận ra rằng anh ta không thể liên hệ các nhận thức khác nhau của mình, hoặc các bộ phận của sự vật với cái toàn thể. Quan trọng nhất là, anh ta đã gặp khó khăn lớn trong việc liên hệ một số biểu tượng với nhau, như cách chúng ta thường làm khi chúng ta suy nghĩ bằng các từ ngữ. Do đó, Zazetsky thường nói về malapropisms (Từ dùng sai nghĩa một cách buồn cười). Như thể anh ta không có một mạng lưới đủ lớn để nắm bắt và giữ lại các từ ngữ và ý nghĩa của chúng, và anh ta thường không thể liên hệ các từ với nghĩa hoặc định nghĩa của chúng. Anh ta sống với những mảnh vỡ và viết, “Tôi luôn ở trong sương mù …  Tất cả những gì lóe lên trong tâm trí tôi là các hình ảnh. . . Ảo ảnh mù mịt đột nhiên xuất hiện và đột nhiên biến mất … Tôi không thể hiểu được hay nhớ được chúng có ý nghĩa gì.” Lần đầu tiên, Barbara thấy rằng khuyết tật về não bộ của cô đã có phương hướng. Nhưng Luria không cung cấp một thứ cô cần: một cách điều trị. Khi cô nhận ra mình thực sự bị hư hỏng/suy yếu như thế nào, cô thấy kiệt sức, chán nản hơn và nghĩ rằng mình không thể đi trên con đường này. Ở ga tàu điện ngầm, cô đã tìm một vị trí để lao xuống đảm bảo chết ngay.

Đúng vào thời điểm này trong cuộc đời cô, khi cô hai mươi tám tuổi và vẫn đang học cao học, một tờ giấy xuất hiện trên bàn của cô. Mark Roseneig của Đại học California tại Berkeley đã nghiên cứu về loài chuột trong môi trường kích thích và không kích thích, và trong khám nghiệm tử thi, ông thấy rằng não của những con chuột bị kích thích có nhiều chất dẫn truyền thần kinh hơn, nặng hơn và cung cấp máu tốt hơn so với não của những con chuột ở môi trường ít kích thích hơn. Ông là một trong những nhà khoa học đầu tiên chứng minh tính dẻo dai bằng cách chỉ ra hoạt động có thể tạo ra những thay đổi trong cấu trúc của não.

Barbara như bị sét đánh. Rosenzweig đã chỉ ra rằng bộ não có thể được sửa đổi. Mặc dù nhiều người nghi ngờ điều đó, nhưng điều này có nghĩa là sự bù trừ có thể không phải là giải pháp duy nhất. Bước đột phá của riêng cô sẽ là liên kết nghiên cứu của Rosenzweig và Luria.

Barbara Arrowsmith Young

Cô tự cô lập bản thân và bắt đầu thực hiện những bài tập trí óc do cô thiết kế đến mức kiệt sức, hết tuần này đến tuần khác — với những giờ nghỉ giải lao ngắn ngủi để ngủ, dù cô không đảm bảo rằng chúng sẽ dẫn cô đến đâu. Thay vì thực hành liệu pháp bù trừ, cô luyện tập chức năng yếu nhất của mình— liên kết một số biểu tượng lại với nhau. Một bài tập bao gồm đọc hàng trăm tầm thẻ ảnh mặt đồng hồ biểu thị những thời gian khác nhau. Cô nhờ Joshua Cohen viết thời gian đúng ở mặt sau những thẻ ảnh. Cô xáo trộn các thẻ để cô không thể ghi nhớ câu trả lời. Cô mở thẻ ảnh, cố gắng đọc thời gian rồi kiểm tra câu trả lời, sau đó chuyển sang thẻ tiếp theo nhanh nhất có thể. Khi cô không thể trả lời đúng thời gian trên thẻ, cô dành hàng tiếng đồng hồ để xem một chiếc đồng hồ thật, chầm chậm quay bàn tay, cố gắng hiểu được tại sao, vào lúc 2:45, kim giờ lại nằm ở ba phần tư hướng về số ba.

Khi cuối cùng cô cũng hiểu được các câu trả lời, cô bổ sung thêm kim giây và sáu mươi giây cho một phút. Vào cuối nhiều tuần luyện tập đến kiệt sức, cô không chỉ có thể xem đồng hồ nhanh hơn người bình thường, mà cô còn nhận thấy những khó khăn khác liên quan đến biểu tượng của cô cũng được cải thiện, và lần đầu tiên nắm bắt được ngữ pháp, toán học và logic. Quan trọng nhất là, cô ấy có thể hiểu được những gì mọi người đang nói khi họ nói điều đó. Lần đầu tiên trong đời, cô bắt đầu sống trong thời gian thực. Được thúc đẩy bởi thành công ban đầu của mình, cô đã thiết kế các bài tập cho các khuyết tật khác của mình – khó khăn về không gian, khó khăn trong việc nhận biết chân tay ở đâu và khuyết tật thị giác – và đưa chúng lên mức trung bình.

Barbara và Joshua Cohen kết hôn. Vào năm 1980, họ đã mở Trường Arbowmith ở Toronto. Họ đã nghiên cứu cùng nhau, và Barbara tiếp tục phát triển các bài tập dành cho não bộ và điều hành trường học hằng ngày. Cuối cùng họ chia tay, và Joshua chết vào năm 2000.

Bởi vì rất ít người biết được và chấp nhận tính dẻo thần kinh hoặc tin rằng bộ não có thể tập luyện được như thể nó là một cơ bắp, hiếm có bối cảnh nào để hiểu được công việc của cô. Cô bị chỉ trích khi đưa ra những tuyến bố— rằng khuyết tật học tập có thể điều trị được— khi chưa được chứng minh. Nhưng thay vì cảm thấy phiền lòng bởi sự không chắc chắn, cô tiếp tục thiết kế các bài tập cho các vùng não và các chức năng thường bị suy yếu nhất ở những người khuyết tật học tập. Trong những năm trước khi ứng dụng máy quét não công nghệ cao, cô dựa vào nghiên cứu của Luria để biết được những vùng não bộ nào thường xử lý các chức năng trí tuệ gì. Luria đã thành lập bản đồ não của riêng mình bằng cách làm việc với những bệnh nhân như Zazetsky. Ông quan sát vị trí vết thương của một người lính và liên kết vị trí này với các chức năng tinh thần bị mất.

Barbara phát hiện ra rằng các rối loạn học tập thường là phiên bản nhẹ hơn của những khiếm khuyết về tư duy được nhìn thấy ở các bệnh nhân của Luria. Những người nộp đơn vào trường Arbowmith – cả trẻ em và người lớn – trải qua tới bốn mươi giờ đánh giá, được thiết kế để xác định chính xác chức năng não nào bị suy yếu và liệu chúng có thể can thiệp được hay không. Những học sinh được nhận vào trường, nhiều em hay bị mất tập trung khi học ở những trường bình thường, ngồi yên lặng làm việc trước máy tính của mình. Một số người, được chẩn đoán mắc chứng thiếu tập trung cũng như các chứng rối loạn học tập, đã học ở Ritalin khi họ vào trường. Khi các bài tập của họ tiến triển, một số người có thể bỏ thuốc, vì những vấn đề về sự tập trung chú ý của họ là thứ yếu đối với các chứng rối loạn học tập tiềm ẩn của họ.

Ở trường, những đứa trẻ, giống như Barbara, từng không đọc được đồng hồ hiện giờ đang làm các bài tập trên máy tính, đọc đồng hồ phức tạp chỉ trong vài giây (không chỉ có kim phút, kim giờ và kim giây mà còn những nhánh thời gian khác, chẳng hạn như ngày, tháng, năm). Chúng ngồi yên lặng, với sự tập trung cao độ, cho đến khi chúng có đủ số câu trả lời đúng để tiến lên cấp độ cao hơn, khi chúng hét lên một tiếng “Yes!” và màn hình máy tính của chúng sáng lên để chúc mừng. Khi chúng kết thúc, chúng có thể đọc đồng hồ phức tạp hơn nhiều so với những người “bình thường” có thể đọc. Ở các bàn khác, trẻ em đang học chữ Urdu và tiếng Ba Tư để tăng cường ký ức thị giác. Hình dạng của những chữ cái này không quen thuộc, và bài tập não bộ này đòi hỏi học sinh phải học cách nhận ra những hình dạng lạ lẫm này một cách nhanh chóng.

Những đứa trẻ khác thì giống như những tên cướp biển nhỏ, đeo miếng che mắt ở mắt trái và chăm chú dõi theo các dòng phức tạp, các dòng nghuệch ngoạc, những mẫu chữ tiếng Trung bằng bút. Miếng dán mắt buộc thông tin thị giác phải đi vào mắt bên phải, sau đó đến phần não bộ có vấn đề. Những đứa trẻ này không đơn giản chỉ là học cách viết tốt hơn. Đa số chúng gặp phải ba vấn đề: khó khăn trong việc nói một cách trôi chảy, viết gọn gàng và đọc. Barbara, làm theo Luria, tin rằng cả ba khó khăn này là do một điểm yếu trong chức năng não thường giúp chúng ta phối hợp và xâu chuỗi một số chuyển động khi chúng ta thực hiện các nhiệm vụ này.

Khi chúng ta nói, não của chúng ta chuyển đổi một chuỗi các biểu tượng – các chữ cái và từ ngữ của ý nghĩ – thành một chuỗi các chuyển động được tạo ra bởi lưỡi và cơ môi của chúng ta. Barbara tin rằng, lại làm theo Luria, phần não kết hợp các chuyển động này lại với nhau là vỏ não trước bên trái của não. Tôi đã giới thiệu một số người bị suy yếu trong chức năng não này đến trường. Một cậu bé mắc phải vấn đề này thì hay nản lòng, bởi vì những suy nghĩ của cậu đến nhanh hơn việc cậu ta có thể biến chúng thành lời nói, và cậu ta thường bỏ qua những mẩu thông tin, gặp khó khăn trong việc tìm ra từ ngữ và nói lảm nhảm. Cậu là một người rất ưa giao du nhưng không thể thể hiện được bản thân và im lặng phần lớn thời gian. Khi được hỏi một câu ở trong lớp, cậu thường biết câu trả lời nhưng lại lại mất rất nhiều thời gian đế nói câu trả lời, việc đó khiến cậu trông kém thông minh, và cậu bắt đầu nghi ngờ bản thân.

Khi chúng ta viết một ý nghĩ, bộ não của chúng ta chuyển đổi các từ – vốn là biểu tượng – thành chuyển động của ngón tay và bàn tay. Một cậu bé có chữ viết nhát gừng vì khả năng xử lý chuyển đổi các biểu tượng thành chuyển động dễ bị quá tải, vì vậy cậu phải viết với nhiều chuyển động nhỏ, rời rạc thay vì những dòng chữ dài, trôi chảy. Mặc dù cậu từng được dạy viết chữ thảo, nhưng cậu lại thích viết chữ in hơn. (Khi trưởng thành, những người mắc phải vấn đề này thường được nhận ra vì họ thích viết chữ in hoặc đánh máy. Khi chúng ta viết chữ in, chúng ta viết các chữ cái tách biệt ra, chỉ với một vài chuyển động của bút, điều đó ít gây căng thẳng lên bộ não. Còn viết chữ thảo thì chúng ta viết nhiều chữ cùng một lúc và bộ não phải xử lý nhiều chuyển động phức tạp hơn.) Việc viết chữ gây ra nhiều khổ sở cho cậu bé này, vì cậu thường biết câu trả lời đúng trong các bài kiểm tra nhưng viết chậm đến mức cậu không thể làm hết được. Hoặc cậu sẽ nghĩ về một từ, chữ cái hoặc số nhưng viết một từ khác. Những đứa trẻ này thường bị buộc tội là bất cẩn, nhưng thực tế là vì bộ não bị quá tải của chúng phát ra những chuyển động sai. Những học sinh với khuyết tật này cũng gặp vấn đề về đọc. Thông thường khi chúng ta đọc, não đọc một phần của câu, sau đó hướng mắt di chuyển đúng khoảng cách trên trang để thực hiện phần tiếp theo của câu, đòi hỏi một chuỗi chuyển động chính xác của mắt.

Việc đọc của cậu bé rất chậm vì cậu bỏ qua các từ, mất vị trí và sau đó mất tập trung. Đọc trở thành công việc quá sức và gây mỏi mệt. Trong các bài kiểm tra, cậu thường đọc sai câu hỏi, và khi cậu cố gắng đọc lại các câu trả lời của mình, cậu sẽ bỏ qua toàn bộ các phần.

Tại trường Arrowsmith, bài tập não của cậu bé này yêu cầu theo dấu những đường, nét phức tạp để kích thích tế bào thần kinh của cậu ta trong khu vực tiền vận động bị suy yếu. Barbara phát hiện thấy những bài tập theo dấu đã cải thiện cả ba lĩnh vực sau ở trẻ — nói, viết và đọc. Vào thời điểm cậu bé tốt nghiệp, cậu bé đã đọc trên cấp độ và lần đầu tiên cậu có thể đọc sách) để giải trí. Cậu nói những câu dài hơn, đầy đủ ý một cách tự nhiên, và kỹ năng viết cũng cải thiện.

Ở trường, một số học sinh nghe CD và ghi nhớ những bài thơ để cải thiện trí nhớ thính giác bị suy yếu. Những đứa trẻ này thường hay quên lời hướng dẫn và bị cho là vô trách nhiệm hoặc lười biếng, trong khi thực tế là chúng có một vấn đề về não bộ. Trong khi người bình thường có thể nhớ bảy mục không liên quan (chẳng hạn như số điện thoại bảy chữ số), những người này chỉ có thể nhớ hai hoặc ba. Một số người buộc phải ghi chú lại để không bị quên. Đối với các trường hợp nặng hơn, khi họ không thể theo lời bài hát từ đầu đến cuối và họ bị quá tải thì chỉ cần điều chỉnh lại. Một số người gặp khó khăn trong việc ghi nhớ không chỉ ngôn ngữ nói mà ngay cả suy nghĩ của chính họ, vì suy nghĩ với ngôn ngữ bị chậm. Khiếm khuyết này có thể được điều trị bằng các bài tập ghi nhớ học vẹt.

Barbara cũng đã phát triển các bài tập não cho những đứa trẻ vụng về trong tương tác xã hội vì chúng có một điểm yếu trong chức năng não cho khả năng đọc được những tín hiệu phi ngôn ngữ. Các bài tập khác dành cho những người bị khiếm khuyết ở thùy trán và những người bốc đồng hoặc khó khăn trong việc lập kế hoạch, xây dựng chiến lược, sắp xếp những gì có liên quan, hình thành mục tiêu và bám sát chúng. Họ thường tỏ ra vô tổ chức, hay thay đổi, gàn dở và không thể học hỏi từ những sai lầm của mình. Barbara tin rằng nhiều người được gắn mác “cuồng loạn hysterical ” hoặc “chống đối xã hội” có những điểm yếu trong khu vực não bộ này.

Các bài luyện tập não bộ cũng chính là bài tập để thay đổi cuộc đời. Một sinh viên đã tốt nghiệp người Mĩ nói với tôi rằng khi anh bắt đầu đi học ở độ tuổi mười ba, kỹ năng đọc và làm toán của anh vẫn ở cấp độ của học sinh lớp ba. Sau khi làm bài kiểm tra đánh giá tâm thần kinh ở trường đại học Tufts, anh được cho biết rằng anh sẽ không bao giờ tiến bộ. Mẹ anh đã thử cho anh học ở mười trường khác nhau dành cho học sinh bị khuyết tật học tập, nhưng không mang lại kết quả. Sau ba năm học ở trường Arrowsmith, anh đã đọc và làm toán ở cấp độ của học sinh lớp mười. Bây giờ anh ấy đã tốt nghiệp đại học và làm việc trong ngành đầu tư mạo hiểm. Một sinh viên khác đã đến với Arrowsmith năm mười sáu tuổi nhưng kỹ năng đọc mới ở cấp độ học sinh lớp một. Cha mẹ anh và các giáo viên đã thử mọi kỹ thuật bù trừ theo tiêu chuẩn. Sau mười bốn tháng học ở Arrowsmith anh ta đọc ở cấp độ của học sinh lớp bảy.

Barbara Arrowsmith Young

Ai ai cũng có một số chức năng não bộ bị yếu, và những kỹ thuật dựa trên tính dẻo của thần kinh có tiềm năng rất lớn trong việc giúp đỡ hầu như tất cả mọi người. Những điểm yếu của chúng ta có thể ảnh hưởng sâu sắc đến thành công trong sự nghiệp của chúng ta, vì hầu hết các ngành nghề đều yêu cầu sử dụng nhiều chức năng của não. Barbara đã sử dụng các bài tập não để giải cứu một nghệ sĩ tài năng, người có khả năng vẽ và cảm nhận màu sắc hàng đầu nhưng khả năng nhận biết hình dạng của các vật thể lại yếu. (Khả năng nhận ra hình dạng phụ thuộc vào một chức năng não khá khác biệt so với các chức năng cần thiết để vẽ hoặc nhìn thấy màu sắc; nó cũng là kỹ năng tương tự cho phép một số người rất giỏi trong những trò chơi game như Where’s Waldo? Phụ nữ thường giỏi hơn đàn ông trong khả năng nhận diện hình dạng, điều đó lý giải tại sao đàn ông dường như gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đồ ăn trong tủ lạnh.) Barbara cũng giúp cho một luật sư, một luật sư đầy triển vọng, vì khiếm khuyết ở khu vực phát âm Broca, nên anh ấy ăn nói rất kém ở tòa. Một người với một vấn đề của vùng Broca có thể thấy khó mà suy nghĩ trong khi đang nói.

Sau khi thực hành các bài tập não tập trung vào khu vực của Broca, luật sư tiếp tục sự nghiệp tại phòng xử án thành công.

Phương pháp tiếp cận Arrowsmith và việc sử dụng các bài tập luyện não bộ nói chung, có những ý nghĩa quan trọng cho giáo dục. Rõ ràng nhiều trẻ em sẽ được hưởng lợi từ việc đánh giá các vùng não để xác định những chức năng não bộ bị suy yếu của chúng và một chương trình để tăng cường chúng — một cách tiếp cận hiệu quả hơn nhiều so với việc dạy kèm chỉ đơn giản là lặp lại một bài học và dẫn đến sự thất vọng vô tận. Khi “các liên kết yếu trong chuỗi” được tăng cường, mọi người sẽ tiếp cận được những kỹ năng trước kia bị kìm hãm phát triển, họ cảm thấy được giải phóng rất nhiều. Một bệnh nhân của tôi, trước khi anh ta thực hiện các bài tập luyện não, có cảm giác rằng anh ta rất thông minh nhưng không thể phát huy được hết trí thông minh của mình. Trong một thời gian dài, tôi đã lầm tưởng những vấn đề của anh ấy chủ yếu do những xung đột tâm lý, như sợ cạnh tranh và những mâu thuẫn bị chôn giấu về chuyện vượt qua cha mẹ và anh chị em của mình. Những xung đột như vậy đã tồn tại và kìm giữ anh ta lại. Nhưng tôi đã nhận ra xung đột của anh ấy về việc học – mong ước né tránh nó – phần lớn do sự thất vọng kéo dài nhiều năm và một nỗi sợ thất bại dựa trên những giới hạn của bộ não anh ấy. Khi anh được giải thoát khỏi những khó khăn của mình bằng các bài tập của Arrowsmith, tình yêu học tập bẩm sinh của anh đã xuất hiện trở lại.

Điều trớ trêu của phát hiện mới này là trong hàng trăm năm, các nhà giáo dục dường như đã cảm nhận được rằng bộ não của trẻ em phải được xây dựng thông qua các bài tập làm tăng độ khó nhằm tăng cường các chức năng não. Cho đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một nền giáo dục cổ điển thường bao gồm việc học thuộc lòng những bài thơ dài bằng tiếng nước ngoài, giúp tăng cường trí nhớ thính giác (do đó tư duy bằng ngôn ngữ) và một sự cuồng tín đối với chữ viết tay, có thể giúp tăng cường khả năng vận động và do đó không chỉ giúp viết chữ đẹp mà còn làm tăng tốc độ và sự trôi chảy khi đọc và nói. Người ta cũng dành nhiều sự quan tâm để luyện nói chính xác và hoàn thiện cách phát âm từ vựng. Sau đó vào những năm 1960, các nhà giáo dục đã bỏ các bài tập truyền thống như vậy khỏi chương trình giảng dạy, vì chúng quá cứng nhắc, nhàm chán và “không liên quan”. Nhưng việc bỏ đi các bài tập này cũng rất tai hại; vì chúng có thể là cơ hội duy nhất cho nhiều học sinh phải luyện tập chức năng não bộ một cách hệ thống, mang đến cho chúng ta sự trôi chảy khi làm việc với các biểu tượng. Đối với phần còn lại trong chúng ta, sự biến mất của những bài luyện tập này có thể góp phần dẫn đến sự giảm sút của khả năng hùng biện nói chung, vì muốn hùng biện tốt đòi hỏi phải có trí nhớ và một mức độ năng lực trí tuệ thính giác có thể xa lạ với chúng ta hiện nay. Trong những cuộc tranh luận Lincoln-Douglas năm 1858, các nhà tranh luận có thể nói thoải mái trong một tiếng đồng hồ hoặc hơn thế mà không cần nhìn giấy; còn ngày nay, nhiều học sinh được học trong các ngôi trường ưu tú nhất của chúng ta kể từ những năm 1960 lại thích kiểu thuyết trình bằng PowerPoint—một sự bù trừ cho vỏ não trước suy yếu.

Công việc của Barbara Arrowsmith Young thôi thúc chúng ta tưởng tượng xem trẻ sẽ đạt thành tích tốt hơn nhiều thế nào nếu mọi đứa trẻ đều có một bản đánh giá về não bộ và nếu phát hiện ra các vấn đề thì một chương trình được thiết kế riêng được tạo ra nhằm tăng cường những khu vực não thiết yếu đó trong những năm đầu đời, thời điểm mà độ dẻo dai về thần kinh là lớn nhất.

Tốt hơn hết là cần loại bỏ những vấn đề não bộ ngay từ trong trứng hơn là để cho đứa trẻ cài cắm vào đầu nó niềm tin rằng nó là đứa “ngu đần”, bắt đầu ghét học và ghét đến trường, và ngừng cải thiện những vùng não bị suy yếu, đánh mất sức mạnh mà chúng có thể có. Trẻ nhỏ thường có tiến bộ nhanh hơn thông qua các bài tập luyện não so với thanh thiếu niên, có lẽ vì trong một bộ não chưa trưởng thành, số lượng các kết nối giữa các tế bào thần kinh, hoặc khớp thần kinh, lớn hơn 50% so với não người trưởng thành. Khi chúng ta đến tuổi thiếu niên, một hoạt động “cắt tỉa trở lại” khổng lồ bắt đầu diễn ra trong não, và các kết nối synap và tế bào thần kinh chưa được sử dụng rộng rãi đột nhiên chết đi – một trường hợp kinh điển cho câu nói “sử dụng nó hoặc mất nó”. It is probably best to strengthen weakened areas while all this extra cortical real estate is available. Những bài đánh giá não bộ có thể hữu ích ở các trường học và thậm chí ở bậc cao đẳng và đại học, khi nhiều sinh viên từng học rất tốt ở trường phổ thông nhưng lại sa sút khi vào đại học vì những chức năng não bộ yếu kém của họ bị quá tải bởi những yêu cầu ngày càng tăng của chương trình đại học. Ngay cả khi không gặp phải những vấn đề về não bộ, mọi người trưởng thành đều có thể hưởng lợi lạc từ đánh giá nhận thức dựa trên não, một bài kiểm tra thể lực nhận thức, để giúp họ hiểu rõ hơn về bộ não của chính họ.

Mark Rosenzweig

Đã nhiều năm kể từ khi Mark Rosenzweig lần đầu tiên thực hiện các thí nghiệm về chuột đã truyền cảm hứng cho Barbara và cho cô thấy rằng môi trường phong phú và sự kích thích khiến não bộ phát triển. Trong nhiều năm, các phòng thí nghiệm của ông và những người khác đã chỉ ra rằng việc kích thích não khiến nó phát triển theo hầu hết mọi cách có thể tưởng tượng được. Những con vật được nuôi trong môi trường phong phú – được bao quanh bởi các động vật khác, đồ vật để khám phá, đồ chơi để lăn, thang để leo trèo và bánh xe chạy – học tốt hơn những động vật giống hệt về mặt di truyền nhưng được nuôi trong môi trường nghèo nàn. Acetylcholine, một chất hóa học não cần thiết cho việc học, cao hơn ở những con chuột được huấn luyện về các vấn đề không gian khó nhằn so với những con chuột được huấn luyện những vấn đề đơn giản hơn. Việc huấn luyện tinh thần hoặc cuộc sống trong môi trường phong phú làm tăng trọng lượng não lên 5 phần trăm trong vỏ não của động vật và lên đến 9 phần trăm trong các khu vực não mà việc huấn luyện kích thích trực tiếp. Các tế bào thần kinh được đào tạo hoặc kích thích phát triển thêm 25% các nhánh và tăng kích thước, số lượng kết nối trên mỗi tế bào thần kinh và nguồn cung cấp máu của chúng. Những thay đổi này có thể xảy ra muộn trong cuộc sống, mặc dù chúng không phát triển nhanh ở động vật già như ở những con non. Những hiệu quả tương tự của việc huấn luyện mà môi trường phong phú lên bộ não cũng được nhìn thấy ở tất cả các loài động vật được thử nghiệm cho đến nay.

Khám nghiệm tử thi cho thấy giáo dục làm tăng số lượng các nhánh ở các tế bào thần kinh. Số lượng nhánh tăng lên khiến các nơ-ron cách xa nhau hơn, dẫn đến sự gia tăng về thể tích và độ dày của não. Quan điểm cho rằng bộ não giống như một cơ bắp phát triển nhờ tập thể dục không chỉ là một phép ẩn dụ.

Một số thứ không bao giờ có thể được đặt lại với nhau. Nhật ký của Lyova Zazetsky chủ yếu vẫn là một chuỗi những suy nghĩ rời rạc cho đến cuối đời. Aleksandr Luria, người đã tìm ra ý nghĩa của những suy nghĩ rời rạc đó, thực sự không thể giúp được anh ta. Nhưng câu chuyện cuộc đời của Zazetsky đã giúp Barbara Arrowsmith Young có thể tự chữa lành cho chính mình và những người khác.

Ngày hôm nay Barbara Arrowsmith Young thông minh và hài hước, không có những trở ngại đáng kể nào trong các hoạt động trí tuệ. Cô chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, từ đứa trẻ này sang đứa trẻ khác, một bậc thầy về nhiều kỹ năng.

Cô ấy đã chỉ ra rằng trẻ em khuyết tật học tập có thể vượt xa sự bù đắp và khắc phục vấn đề tiềm ẩn của chúng. Giống như tất cả các chương trình tập thể dục não, phương pháp của cô ấy hiệu quả nhất và nhanh nhất đối với những người chỉ gặp khó khăn ở vài chức năng. Nhưng bởi vì cô ấy đã phát triển các bài luyện tập cho nhiều chứng rối loạn chức năng não, nên cô vẫn có thể trợ giúp cho những đứa trẻ mắc nhiều chứng khuyết tật học tập khác nhau — những trẻ giống như bản thân cô ấy, trước khi cô ấy tự tạo nên cho mình một bộ não tốt hơn.

Chương 3


Thiết kế lại bộ não.
Một nhà khoa học thay đổi bộ não để tăng cường nhận thức và trí nhớ, tăng tốc độ suy nghĩ và chữa lành các vấn đề học tập

Michael Merzenich là một tác nhân đằng sau hàng loạt sáng kiến ​​về tính dẻo thần kinh và những phát minh thực tiễn, và tôi đang trên đường đến Santa Rosa, California, để gặp ông ấy. Ông ấy là cái tên được ca ngợi thường xuyên nhất bởi các nhà phẫu thuật thần kinh khác, và ông ấy là người khó theo dõi nhất. Chỉ khi tôi phát hiện ra ông ấy sẽ có mặt tại một hội nghị ở Texas, tôi đi đến đó và ngồi xuống bên cạnh ông ấy, cuối cùng tôi đã hẹn được một cuộc gặp ở San Francisco.”Hãy dùng địa chỉ e-mail này,” ông nói. “Và nếu anh lại không hồi âm thư?” “Hãy kiên nhẫn.” Vào phút cuối, ông ấy chuyển cuộc gặp của chúng tôi đến biệt thự của ông ở Santa Rosa. Merzenich là người đáng bỏ công ra tìm kiếm.

Michael Merzenich

Nhà khoa học thần kinh người Ireland Ian Robertson đã mô tả ông là “nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về tính dẻo của não”. Chuyên môn của Merzenich là cải thiện khả năng suy nghĩ và nhận thức của mọi người bằng cách thiết kế lại bộ não bằng cách đào tạo các khu vực xử lý cụ thể, được gọi là bản đồ não, để họ làm được nhiều việc trí óc hơn. Ông đã thể hiện một cách chi tiết khoa học cách thức các vùng xử lý của não bộ thay đổi nhiều hơn bất kỳ nhà khoa học nào.

Biệt thự ở vùng đồi Santa Rosa này là nơi Merzenich sống chậm lại và đổi mới bản thân. Không khí này, những cái cây này, những vườn nho này, có vẻ giống như một mảnh đất của người Ả Rập được cấy vào Bắc Mỹ. Tôi qua đêm ở đây với ông và gia đình ông ấy, rồi sáng hôm sau, chúng tôi đi đến phòng thí nghiệm của ông ở San Francisco.

Những người làm việc với ông ta gọi ông là “Merz”, để gieo vần với “whirs” và “khuấy động”. Khi ông ấy lái chiếc xe mui trần nhỏ của mình đến các cuộc họp —mái tóc màu xám của ông bay bay trong gió, và ông kể với tôi rằng nhiều ký ức sống động nhất trong nửa sau của cuộc đời ông ấy— năm nay ông sáu mươi mốt tuổi— là những cuộc trò chuyện về ý tưởng khoa học. Tôi nghe ông ấy nói về chúng qua điện thoại, bằng giọng nói giòn giã. Khi chúng tôi đi qua một trong những cây cầu vinh quang của San Francisco, ông đã trả một khoản phí mà ông được miễn nộp chỉ vì ông qua mải mê với những ý tưởng mà chúng tôi đang thảo luận. Ông có hàng tá cuộc hợp tác và thí nghiệm đang tiến hành cùng một lúc và thành lập nhiều công ty. Ông mô tả bản thân là “điên khùng.” Ông ấy không điên khùng, mà ông ấy là một sự pha trộn thú vị giữa sự dữ dội và thân mật. Ông ấy sinh ra ở Lebanon, Oregon, gốc Đức và nói giọng West Coast, là người dễ tính, sống thực tế.

Trong số các nhà phẫu thuật thần kinh có giấy phép hành nghề khoa học uy tín, chính Merzenich là người đưa ra những tuyên bố đầy tham vọng nhất cho lĩnh vực này: rằng các bài tập não bộ có thể hữu ích như thuốc để điều trị các bệnh nghiêm trọng như tâm thần phân liệt; tính dẻo dai của não tồn tại từ lúc chúng ta sinh ra cho đến khi xuống mồ; và những cải tiến căn bản trong hoạt động nhận thức – cách chúng ta học tập, suy nghĩ, nhận thức và ghi nhớ-có thể xảy ra ngay cả ở người cao tuổi. Bằng sáng chế mới nhất của ông là dành cho các kỹ thuật hứa hẹn cho phép người lớn học các kỹ năng ngôn ngữ, mà không cần nỗ lực ghi nhớ. Merzenich lập luận rằng việc thực hành một kỹ năng mới, trong những điều kiện phù hợp, có thể thay đổi hàng trăm triệu và có thể là hàng tỷ kết nối giữa các tế bào thần kinh trong bản đồ não của chúng ta.

Nếu bạn hoài nghi về những tuyên bố ngoạn mục như vậy, thì hãy nhớ rằng chúng đến từ một người đàn ông đã chữa khỏi một số rối loạn từng được cho là khó chữa. Thuở ban đầu của sự nghiệp mà Merzenich phát triển cùng với nhóm của mình, thiết kế được sử dụng phổ biến nhất cho ốc tai điện tử, cho phép trẻ em khiếm thính bẩm sinh nghe được. Nghiên cứu về tính dẻo hiện tại của ông giúp học sinh khuyết tật học tập cải thiện nhận thức và tri giác của chúng. Những kỹ thuật này — loạt chương trình máy tính của ông dựa trên tính dẻo của não bộ, Fast ForWord—đã giúp hàng trăm ngàn người. Fast ForWord được ngụy trang như một trò chơi của trẻ em. Điều bất ngờ về nó là sự thay đổi diễn ra rất nhanh. Trong một số trường hợp, những người gặp khó khăn về nhận thức kéo dài suốt đời đã trở nên tốt hơn chỉ sau ba mươi đến sáu mươi giờ điều trị. Điều bất ngờ là chương trình cũng giúp được cho một số trẻ mắc tự kỷ. Merzenich cho rằng khi việc học diễn ra theo cách phù hợp với các quy luật chi phối tính dẻo của não, thì “bộ máy” tinh thần của não có thể được cải thiện để chúng ta học và nhận thức với độ chính xác, tốc độ và khả năng duy trì tốt hơn.

Rõ ràng là khi chúng ta học tập, chúng ta tăng cường vốn hiểu biết của mình. Nhưng Merzenich cho rằng chúng ta cũng có thể thay đổi chính cấu trúc của bộ não và tăng cường khả năng học hỏi. Không giống như một chiếc máy tính, bộ não liên tục tự thích nghi.

“Vỏ não,” ông ấy nói về lớp mỏng bên ngoài của não, “trên thực tế cải tiến có chọn lọc những khả năng xử lý của nó để phù hợp với từng nhiệm vụ trong tay.” Nó không chỉ đơn giản là học; nó luôn luôn “học cách để học.” Bộ não mà Merzenich mô tả không phải là một con tàu vô tri vô giác mà chúng ta lấp đầy; đúng hơn, nó giống như một sinh vật sống với sự thèm ăn, một loài có thể phát triển và tự thay đổi bằng cách nuôi dưỡng và tập thể dục đúng cách. Trước công trình nghiên cứu của Merzenich, bộ não được coi là một cỗ máy phức tạp, có những giới hạn không thể thay đổi được về trí nhớ, tốc độ xử lý và trí thông minh. Merzenich đã chỉ ra mỗi giả định này đều sai lầm. Merzenich không định tìm hiểu cách não bộ thay đổi.

Ông chỉ tình cờ nhận ra não bộ có thể tự tổ chức lại các bản đồ não của nó. Và mặc dù ông không phải là nhà khoa học đầu tiên chứng minh tính dẻo dai của thần kinh, nhưng thông qua các thí nghiệm ông làm trong buổi đầu sự nghiệp, các nhà khoa học thần kinh chính thống dần chấp nhận tính dẻo của não bộ.

Để hiểu làm thế nào bản đồ não có thể được thay đổi, trước tiên chúng ta cần phải có một bức tranh của chúng. Lần đầu tiên chúng được làm sống động ở người bởi bác sĩ phẫu thuật thần kinh, Tiến sĩ Wilder Penfield tại Viện Thần kinh Montreal vào những năm 1930. Theo Penfield, “lập bản đồ” bộ não của một bệnh nhân có nghĩa là tìm thấy những phần khác nhau của cơ thể được thể hiện ở đâu trong não bộ và các hoạt động của chúng được xử lý— một dự án của người theo chủ nghĩa cục bộ. Những người theo chủ nghĩa cục bộ phát hiện ra thùy trán là chỗ của hệ thống vận động của não bộ, khởi đầu và điều phối sự chuyển động của cơ bắp chúng ta. Ba thùy phía sau thùy trán, thùy thái dương, thùy chẩm và thùy đỉnh, bao gồm hệ thống cảm giác của não, xử lý các tín hiệu gửi đến não từ các thụ thể cảm giác của chúng ta – mắt, tai, xúc giác, v.v.

Penfield đã dành nhiều năm trời để lập bản đồ các bộ phận cảm giác và vận động của não bộ, trong khi thực hiện phẫu thuật não cho các bệnh nhân bị ung thư và động kinh, những người vẫn duy trì được sự tỉnh táo trong suốt thời gian làm phẫu thuật bởi vì trong não của họ không có các thụ thể cảm nhận cơn đau. Cả hai bản đồ cảm giác và vận động đều là một phần của vỏ não, nằm trên bề mặt của não và do đó có thể dễ dàng tiếp cận bằng đầu dò. Penfield khám phá ra khi ông chạm vào bản đồ não cảm giác của bệnh nhân bằng một đầu dò điện, nó kích hoạt các cảm giác mà bệnh nhân cảm nhận được trong cơ thể. Ông đã sử dụng đầu dò điện để giúp ông phân biệt các mô khỏe mạnh mà ông muốn giữ lại khỏi các khối u không lành mạnh hoặc mô bệnh lý mà ông cần phải loại bỏ.

Thông thường, khi tay của một người được chạm vào, tín hiệu điện truyền đến tủy sống và lên não, nơi nó bật các tế bào trong bản đồ khiến bàn tay có cảm giác được chạm vào. Penfield phát hiện thấy ông cũng có thể khiến bệnh nhân cảm thấy bàn tay của mình bị chạm vào bằng cách bật khu vực bàn tay của bản đồ não bằng điện. Khi ông ta kích thích một phần khác của bản đồ, bệnh nhân có thể cảm thấy cánh tay của mình bị chạm vào; rồi một phần khác, là khuôn mặt của anh. Mỗi lần ông ta kích thích một khu vực, ông ta hỏi bệnh nhân họ cảm thấy gì, để đảm bảo rằng ông không cắt đi những mô khỏe mạnh. Sau nhiều ca phẫu thuật như vậy, ông có thể chỉ ra vị trí trên bản đồ cảm giác của não bộ, nơi tất cả các phần trên bề mặt của cơ thể được thể hiện.

Ông ta cũng làm như vậy đối với bản đồ vận động, phần não điều khiển vận động. Bằng cách chạm vào các phần khác nhau của bản đồ này, ông ta có thể kích hoạt các cử động ở chân, cánh tay, mặt và các cơ bắp khác của bệnh nhân.

Một trong những khám phá tuyệt vời mà Penfield đã thực hiện là các bản đồ não cảm giác và vận động, giống như bản đồ địa lý, là bản đồ địa hình, có nghĩa là các khu vực liền kề nhau trên bề mặt cơ thể thường liền kề nhau trên bản đồ não. Ông ta cũng phát hiện ra khi ông chạm vào một số phần của bộ não, ông ta đã kích hoạt những ký ức thời thơ ấu đã biến mất từ ​​lâu hoặc những cảnh kỳ diệu như mơ – ngụ ý rằng các hoạt động tinh thần cao hơn cũng được ánh xạ trong não bộ.

Bản đồ Penfield định hình quan điểm về bộ não kéo dài suốt nhiều thế hệ. Nhưng bởi vì các nhà khoa học tin rằng bộ não không thể thay đổi, nên họ đã giả định và dạy rằng các bản đồ não là cố định, bất biến và phổ quát – giống nhau trong mỗi chúng ta — dù bản thân Penfield chưa bao giờ  đưa ra tuyên bố như vậy.

Merzenich phát hiện ra những bản đồ này không phải là bất biến trong một bộ não hay mang tính phổ quát ai cũng như ai, mà chúng khác nhau về kích thước và ranh giới giữa người này với người khác. Trong một loạt các thí nghiệm xuất sắc, ông đã chỉ ra rằng hình dạng bản đồ não của chúng ta thay đổi tùy thuộc vào những gì chúng ta làm trong suốt cuộc đời. Nhưng để chứng minh điểm này, ông ta cần một công cụ tốt hơn nhiều so với các điện cực của Penfield, một công cụ có thể phát hiện ra những thay đổi ngay tức khắc chỉ trong một vài tế bào thần kinh.

Khi còn là sinh viên tại Đại học Portland, Merzenich và một người bạn đã sử dụng thiết bị điện tử của phòng thí nghiệm để chứng minh cơn bão của hoạt động điện trong các tế bào thần kinh của côn trùng. Những thí nghiệm này đã thu hút sự chú ý của một giáo sư, người ngưỡng mộ tài năng và óc tò mò của Merzenich và đề nghị anh ta học cao học tại cả Harvard và Johns Hopkins. Cả hai trường đều nhận ông. Merzenich đã chọn Hopkins để theo học chương trình tiến sỹ sinh lý học dưới sự hướng dẫn của một trong những nhà thần kinh học vĩ đại của thời đại, Vernon Mountcastle, người vào những năm 1950 đã chứng minh rằng sự tinh tế của kiến trúc não bộ có thể được khám phá bằng cách nghiên cứu hoạt động điện của các tế bào thần kinh bằng một kỹ thuật mới: lập vi bản đồ (micromapping) với các vi điện cực hình viên pin.

Các vi điện cực nhỏ và nhạy đến mức chúng có thể được đưa vào bên trong hoặc bên cạnh một tế bào thần kinh đơn lẻ và có thể phát hiện khi một tế bào thần kinh riêng lẻ phát tín hiệu điện của nó sang các nơ-ron khác. Tín hiệu của tế bào thần kinh truyền từ vi điện cực đến một bộ khuếch đại và sau đó đến một màn hình hiện song, nơi nó xuất hiện dưới dạng một mũi nhọn. Merzenich sẽ thực hiện hầu hết các khám phá lớn của mình với các vi điện cực.

Phát minh quan trọng này cho phép các nhà khoa học thần kinh giải mã sự giao tiếp/liên lạc của các tế bào thần kinh, trong đó não người trưởng thành có khoảng 100 tỷ. Sử dụng các điện cực lớn như Penfield đã làm, các nhà khoa học có thể quan sát hàng ngàn tế bào thần kinh bắn (điện) ra cùng một lúc. Với các vi điện cực, các nhà khoa học có thể “lắng nghe” một hoặc một số tế bào thần kinh ngay lập tức khi chúng liên lạc với nhau. Lập Vi bản đồ (Micromapping) vẫn chính xác hơn khoảng một nghìn lần so với thế hệ máy quét não hiện tại, giúp phát hiện các đợt hoạt động kéo dài trong một giây ở hàng ngàn tế bào thần kinh. Nhưng tín hiệu điện của một tế bào thần kinh thường kéo dài trong một phần nghìn giây, vì vậy quét não sẽ bỏ lỡ một lượng thông tin đặc biệt. Nhưng vi bản đồ không thể thay thế được cho quét não vì nó đòi hỏi một loại phẫu thuật cực kỳ tẻ nhạt, được thực hiện dưới kín hiển vi cùng với các dụng cụ vi phẫu thuật.

Merzenich đã sử dụng công nghệ này ngay lập tức. Để lập bản đồ khu vực não xử lý cảm giác từ bàn tay, Merzenich sẽ cắt một mảnh sọ khỉ trên vỏ não giác quan, để lộ một dải não từ 1 đến 2 milimet, sau đó chèn một vi điện cực bên cạnh một tế bào thần kinh cảm giác. Tiếp theo, ông ta sẽ chạm vào bàn tay của con khỉ cho đến khi chạm vào một phần – giả sử là đầu ngón tay – khiến tế bào thần kinh đó bắn một tín hiệu điện vào vi điện cực. Ông ta sẽ ghi lại vị trí của tế bào thần kinh đại diện cho đầu ngón tay, thiết lập điểm đầu tiên trên bản đồ. Sau đó, ông ta sẽ lấy vi điện cực ra, lại đặt nó gần một tế bào thần kinh khác và chạm vào các phần khác nhau của bàn tay, cho đến khi ông ta tìm thấy phần bật lên tế bào thần kinh đó. Ông ta làm việc này cho đến khi lập được bản đồ của toàn bộ bàn tay. Một bản đồ duy nhất có thể cần năm trăm lần chèn và mất vài ngày. Merzenich và các đồng nghiệp của ông đã thực hiện hàng ngàn ca phẫu thuật tốn nhiều công sức này để thực hiện những khám phá của họ.

David Hubel và Torsten Wiesel

Vào khoảng thời gian này, một khám phá quan trọng khác đã được thực hiện sẽ mãi mãi ảnh hưởng đến công việc của Merzenich. Vào những năm 1960, khi Merzenich bắt đầu sử dụng các vi điện cực trên não, hai nhà khoa học khác, người cũng từng làm việc tại Johns Hopkins với Mountcastle, đã phát hiện ra rằng bộ não ở động vật nhỏ (động vật sơ sinh) thì có tính dẻo. David Hubel và Torsten Wiesel đã lập vi bản đồ vỏ não thị giác để tìm hiểu cách thị giác được xử lý ra sao. Họ đã chèn các vi điện cực vào vỏ não thị giác của mèo con và phát hiện ra rằng các phần khác nhau của vỏ não đã xử lý các đường, định hướng và các chuyển động của các vật thể cảm nhận bằng mắt. Họ cũng phát hiện ra có một “giai đoạn quan trọng“, từ tuần thứ ba đến tuần thứ tám của cuộc đời, khi bộ não của mèo con mới sinh phải nhận được sự kích thích thị giác để phát triển bình thường. Trong thí nghiệm quan trọng Hubel và W Diesel đã khâu kín một mí của một con mèo con trong giai đoạn quan trọng của nó, vì vậy mắt nó không nhận được kích thích thị giác. Khi họ mở mắt nhắm này, họ thấy rằng các khu vực thị giác trong bản đồ não thường xử lý thông tin đầu vào từ mắt nhắm đã không phát triển, khiến mắt đó của mèo con bị mù suốt đờiRõ ràng bộ não của mèo con trong thời kỳ quan trọng là có tính dẻo, cấu trúc của chúng được định hình theo nghĩa đen bởi kinh nghiệm.

Khi Hubel và Wiesel kiểm tra bản đồ não của con mắt bị mù đó, họ đã có thêm một phát hiện bất ngờ về tính dẻo. Phần não của mèo con không nhận được kích thích từ đôi mắt bị khâu đã không ngủ yên. Nó bắt đầu xử lý thông tin thị giác đến từ con mắt mở bên kia, như thể bộ não không muốn lãng phí bất kỳ “bất động sản vỏ não” nào và đã tìm ra cách để tự xây dựng lại bản thân — một dấu hiệu khác cho thấy bộ não có tính dẻo trong giai đoạn quan trọng. Hubel và Wiesel đã nhận được giải thưởng Nobel nhờ công trình nghiên cứu này. Mặc dù họ đã khám phá ra tính dẻo trong thời thơ ấu, họ vẫn là những người theo chủ nghĩa cục bộ, bảo vệ quan điểm cho rằng bộ não của người trưởng thành is hardwired khi kết thúc giai đoạn thơ ấu để thực hiện các chức năng ở những vị trí cố định.

Việc khám phá ra giai đoạn quan trọng đã trở thành một trong những khám phá nổi tiếng nhất trong ngành sinh học nửa sau thế kỷ 20. Các nhà khoa học sớm cho thấy các hệ thống não bộ khác cần có kích thích từ môi trường để phát triển. Dường như mỗi hệ thống thần kinh có một giai đoạn quan trọng khác nhau, hay còn gọi là cửa sổ thời gian, mà trong suốt giai đoạn đó nó đặc biệt dẻo dai và nhạy cảm với môi trường, và trong khoảng thời gian đó nó có sự phát triển nhanh chóng. Chẳng hạn như, phát triển ngôn ngữ có một giai đoạn quan trọng bắt đầu từ thời thơ ấu và kết thúc vào giữa năm tám tuổi đến tuổi dậy thì. Sau khi giai đoạn quan trọng này kết thúc, khả năng học ngoại ngữ thứ hai của một người bị hạn chế. Trên thực tế, các ngôn ngữ thứ hai học được sau giai đoạn quan trọng không được xử lý trong cùng một phần não bộ như ngôn ngữ bản địa.

Quan điểm về các giai đoạn quan trọng cũng hỗ trợ cho quan sát của nhà đạo đức học Konrad Lorenz rằng những con ngỗng con nếu được tiếp xúc với con người trong một khoảng thời gian ngắn, từ mười lăm giờ đến ba ngày sau khi sinh, thì chúng sẽ gắn bó với người đó thay vì với ngỗng mẹ, trong suốt cuộc đời. Để chứng minh cho điều đó, ông đã khiến những con ngỗng con gắn bó với ông và đi theo ông khắp nơi. Ông gọi quá trình này là “dấu ấn.” Trên thực tế, phiên bản tâm lý của giai đoạn quan trọng giống với quan điểm của Freud. Ông cho rằng chúng ta trải qua các giai đoạn phát triển là những cửa sổ thời gian ngắn ngủi, trong suốt giai đoạn đó chúng ta phải có được những trải nghiệm nhất định để có tâm lý khỏe mạnh; nhưng giai đoạn đó có tính chất định hình, ông nói, và định hình chúng ta cho đến cuối đời.

Konrad Lorenz

Tính dẻo trong-giai đoạn-quan trọng làm thay đổi thực hành y khoa. Nhờ khám phá của Hubel và Wiesel, những trẻ em bị đục thủy tinh thể bẩm sinh không còn phải chịu cảnh mù lòa nữa. Bây giờ chúng đã được làm phẫu thuật chỉnh sửa khi còn sơ sinh, trong giai đoạn-quan trọng của chúng để bộ não của chúng có thể nhận được ánh sáng cần thiết để hình thành các kết nối quan trọng. Các vi điện cực đã chỉ ra rằng tính dẻo là một thực tế không thể chối cãi của thời thơ ấu. Và họ dường như cũng cho thấy rằng, giống như thời thơ ấu, giai đoạn mềm dẻo của bộ não này là ngắn ngủi.

Ý niệm lờ mờ đầu tiên của Merzenich về tính dẻo của người trưởng thành chỉ là sự tình cờ. Vào năm 1968, sau khi hoàn thành chương trình tiến sĩ, ông đã đi làm nghiên cứu sinh với bà Clinton Woolsey, một nhà nghiên cứu ở Madison, Wisconsin, và là đồng nghiệp của Penfield. Woolsey yêu cầu Merzenich giám sát hai bác sĩ phẫu thuật thần kinh, đó là Tiến sĩ Ron Paul và Herbert Goodman. Cả ba quyết định quan sát những gì xảy ra trong não khi một trong những dây thần kinh ngoại biên trong tay bị cắt và sau đó bắt đầu tái tạo.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng hệ thần kinh được chia thành hai phần. Phần đầu tiên là hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống), là trung tâm chỉ huy và kiểm soát của hệ thống; nó được cho là thiếu tính dẻo. Phần thứ hai là hệ thống thần kinh ngoại biên, đưa các thông điệp từ các thụ thể cảm giác đến tủy sống và não và mang thông điệp từ não và tủy sống đến các cơ và các tuyến. Hệ thần kinh ngoại biên từ lâu đã được biết đến là có tính dẻo dai; nếu bạn cắt một dây thần kinh trong tay, nó có thể “tái sinh” hoặc tự chữa lành.

Mỗi tế bào thần kinh có ba phần. Các sợi nhánh là các nhánh có thể nhận thông tin đầu vào từ các tế bào thần kinh khác. Những sợi nhánh này dẫn vào cơ thể tế bào, duy trì sự sống của tế bào và chứa DNA của nó. Cuối cùng là sợi trục, một sợi cáp sống có độ dài khác nhau (từ độ dài siêu nhỏ trong não, đến một số sợi có thể chạy xuống chân và dài tới sáu feet). Sợi trục thường được so sánh với các sợi dây điện vì chúng có thể mang theo các xung điện với tốc độ rất cao (từ 2 đến 200 dặm một giờ) đến các sợi nhánh của các tế bào thần kinh lân cận.

Một tế bào thần kinh có thể nhận được hai loại tín hiệu: những tín hiệu kích thích nó và những tín hiệu ức chế nó. Nếu một tế bào thần kinh nhận đủ tín hiệu kích thích từ các tế bào thần kinh khác, nó sẽ bắn ra tín hiệu của chính nó. Khi nó nhận đủ tín hiệu ức chế, nó sẽ ít bắn tín hiệu đi. Các sợi trục không chạm vào các sợi nhánh lân cận. Chúng được ngăn cách bởi một không gian siêu nhỏ gọi là khớp thần kinh. Khi một tín hiệu điện đến cuối sợi trục, nó sẽ kích hoạt giải phóng một chất truyền tin hóa học, được gọi là chất dẫn truyền thần kinh, vào khớp thần kinh. Hóa chất truyền tin nổi lên trên sợi nhánh của tế bào thần kinh lân cận, kích thích hoặc ức chế nó.

Khi chúng tôi nói rằng các nơ-ron “tự tái tạo” bản thân chúng, chúng tôi muốn nói rằng sự thay đổi xảy ra ở khớp thần kinh, tăng cường và gia tăng hoặc làm suy yếu và làm giảm, số lượng kết nối giữa các nơ-ron.

Merzenich, Paul và Goodman muốn kiểm tra một tương tác phổ biến nhưng bí ẩn giữa các hệ thống thần kinh ngoại biên và trung ương. Khi một dây thần kinh ngoại biên lớn (bao gồm nhiều sợi trục) bị cắt, đôi khi trong quá trình tái tạo, “dây bị đứt”. Khi các sợi trục gắn sai vào các sợi trục của dây thần kinh, người đó có thể gặp “sự định vị sai”, dẫn đến một cái chạm vào ngón trỏ nhưng lại được cảm nhận ở ngón tay cái. Các nhà khoa học cho rằng sự định vị sai này xảy ra do quá trình tái tạo “làm xáo trộn” các dây thần kinh, gửi tín hiệu từ ngón trỏ đến bản đồ não của ngón tay cái.

Mô hình mà các nhà khoa học có về bộ não và hệ thần kinh đó là mỗi điểm trên bề mặt cơ thể có một dây thần kinh truyền tín hiệu trực tiếp đến một điểm cụ thể trên bản đồ não, tự động được cài đặt ngay từ khi sinh ra. Do đó, một nhánh thần kinh cho ngón tay cái luôn truyền tín hiệu của nó trực tiếp đến vị trí trên bản đồ não về cảm giác cho ngón tay cái. Merzenich và nhóm đã chấp nhận mô hình “điểm-đến-điểm” này của bản đồ não và vô tình ghi lại những gì đã xảy ra trong não trong suốt quá trình xáo trộn các dây thần kinh này.

Họ lập vi bản đồ tay trong bộ não của nhiều con khỉ vị thành niên, cắt một dây thần kinh ngoại biên vào bàn tay và ngay lập tức khâu hai đầu bị đứt lại gần nhau nhưng không chạm vào nhau, kỳ vọng rằng nhiều sợi trục trong dây thần kinh sẽ cắt ngang/băng qua khi dây thần kinh tự tái tạo chính nó. Sau bảy tháng, họ vẽ lại lại bản đồ bộ não. Merzenich cho rằng họ sẽ nhìn thấy một bản đồ não bộ cực kỳ hỗn loạn, lộn xộn. Vì nếu các dây thần kinh của ngón cái và ngón trỏ giao nhau/bắt chéo nhau, ông kỳ vọng rằng việc chạm vào ngón trỏ sẽ tạo ra hoạt động trong khu vực bản đồ não của ngón tay cái. Nhưng ông chẳng nhìn thấy gì cả. Bản đồ gần như bình thường.

“Những gì chúng tôi đã thấy,” Merzenich nói, “thật đáng kinh ngạc. Tôi không thể hiểu được nó.” Nó được sắp xếp theo địa hình như thể bộ não đã xáo trộn các tín hiệu từ các dây thần kinh chéo.

Tuần lễ đột phá này đã thay đổi cuộc sống của Merzenich. Ông nhận ra rằng ông và khoa học thần kinh chính thống, về cơ bản đã hiểu sai về cách bộ não con người hình thành các bản đồ để đại diện cho cơ thể và thế giới. Nếu bản đồ não có thể bình thường hóa cấu trúc của nó để đáp ứng với thông tin đầu vào bất thường, thì quan điểm phổ biến cho rằng chúng ta được sinh ra với một hệ thống được lập trình sẵn để vận hành theo một cách cố định không thể thay đổi được là sai lầm. Não bộ phải có tính dẻo dai.

Làm thế nào bộ não có thể làm điều đó? Thêm nữa, Merzenich cũng quan sát thấy rằng các bản đồ địa hình mới đang hình thành ở những nơi hơi khác so với trước đây. Quan điểm của chủ nghĩa cục bộ cho rằng mỗi chức năng trí tuệ luôn được xử lý ở cùng một vị trí trong não, nhất định là sai lầm hoặc chưa đầy đủ. Merzenich đã làm gì với nó?

Ông đã quay trở lại thư viện để tìm kiếm bằng chứng mâu thuẫn với chủ nghĩa cục bộ. Ông phát hiện thấy vào năm 1912 Graham Brown và Charles Sherrington chỉ ra việc kích thích một điểm trong vỏ não vận động có thể khiến con vật cong chân trong một khoảng thời gian và duỗi thẳng chân vào lúc khác. Trong thí nghiệm này, đã bị thất lạc trong các tài liệu khoa học, ngụ ý rằng không có mối quan hệ điểm-đến-điểm giữa bản đồ vận động của não bộ và một cử động nào đó. Năm 1923 Karl Lashley, sử dụng thiết bị thô sơ hơn rất nhiều so với các vi điện cực, đã mở vỏ não của một con khỉ, kích thích vào một vị trí cụ thể trên não và quan sát những chuyển động. Sau đó anh khâu sọ não khỉ lại. Sau một thời gian, ông lặp lại thí nghiệm đó, kích thích vào cùng vị trí đó của não khỉ, nhưng phát hiện thấy các chuyển động được tạo ra thường thay đổi. Nhà tâm lý học vĩ đại Edwin G. Boring, nói rằng “Bản đồ não bộ vẽ ngày hôm nay sẽ không còn đúng vào ngày mai.”

Bản đồ não rất năng động và luôn thay đổi.

Merzenich ngay lập tức nhìn thấy những ý nghĩa mang tính cách mạng của những thí nghiệm đó. Anh ấy đã thảo luận về thí nghiệm Lashley với Vernon Mountcastle, một người theo chủ nghĩa cụ bộ, người mà Merzenich đã nói với tôi, “đã thực sự bị làm phiền bởi thí nghiệm của Lashley. Mountcastle không muốn tin vào tính dẻo. Ông ta muốn mọi thứ ở đúng vị trí của nó, mãi mãi. Và Mountcastle biết rằng thí nghiệm này đại diện cho một thách thức quan trọng trong cách bạn nghĩ về bộ não.

Mountcastle nghĩ rằng Lashley là một kẻ bốc phét ngông cuồng. “Các nhà thần kinh học sẵn sàng chấp nhận khám phá của Hubel và W Diesel rằng sự dẻo dai tồn tại trong giai đoạn tuổi thơ ấu, vì họ chấp nhận rằng não bộ của trẻ sơ sinh đang ở giai đoạn phát triển. Nhưng họ bác bỏ khám phá của Merzenich rằng tính dẻo dai vẫn tiếp tục ở người trưởng thành.

Merzenich ngả người ra sau với vẻ mặt buồn bã và nhớ lại: “Tôi có tất cả những lý do tại sao tôi muốn tin rằng bộ não không có tính dẻo theo cách này và chúng đã bị ném đi trong một tuần.”

Merzenich giờ phải tìm những người cố vấn của mình trong số những hồn ma của các nhà khoa học đã chết, như Sherrington và Lashley. Ông ấy đã viết một bài báo về thí nghiệm thần kinh bị xáo trộn, và trong phần thảo luận, ông ấy đã lập luận dài nhiều trang rằng bộ não người lớn là nilong/dẻo – mặc dù ông ấy đã không sử dụng từ này.

Nhưng bài thảo luận đó không bao giờ được công bố. Clinton Woolsey, người giám sát của ông, đã viết một chữ X lớn trên đó, nói rằng nó chỉ là phỏng đoán và Merzenich đang đi quá xa dữ liệu. Khi bài báo được xuất bản, không đề cập đến bộ não có tính dẻo, và chỉ nhấn mạnh ở mức tối thiểu để giải thích cho các tổ chức địa hình mới. Merzenich lùi bước trước phe đối lập, ít nhất là trong bản in. Rốt cuộc, anh vẫn là một tiến sỹ làm việc trong phòng thí nghiệm của một người đàn ông khác.

Nhưng ông ta đã tức giận, và tâm trí ông bị xáo động. Ông bắt đầu cho rằng tính dẻo có thể là một thuộc tính cơ bản của bộ não đã tiến hóa để mang lại cho con người một lợi thế cạnh tranh và đó có thể là “một điều tuyệt vời.”

Năm 1971 Merzenich trở thành giáo sư tại Đại học California ở San Francisco, thuộc khoa tai mũi họng và sinh lý học, chuyên nghiên cứu các bệnh về tai. Bây giờ là ông là ông chủ của chính mình, ông bắt đầu một loạt các thí nghiệm sẽ chứng minh sự tồn tại của tính dẻo là điều chắc chắn. Bởi vì lĩnh vực này vẫn còn gây tranh cãi, ông đã thực hiện các thí nghiệm về tính dẻo của mình trong vỏ bọc của nghiên cứu dễ được chấp nhận hơn. Do đó, ông đã dành phần lớn những năm đầu thập niên 1970 để lập bản đồ vỏ não thính giác của các loài động vật khác nhau và ông đã giúp những người khác phát minh và hoàn thiện công nghệ cấy ốc tai điện tử.

Ốc tai là micro bên trong tai của chúng ta. Nó nằm bên cạnh bộ máy tiền đình xử lý cảm giác về vị trí và đã bị tổn thương ở Cheryl, bệnh nhân của Bach-y-Rita. Khi thế giới bên ngoài tạo ra âm thanh, các tần số khác nhau làm rung các tế bào lông nhỏ khác nhau trong ốc tai. Có ba ngàn tế bào lông như vậy, chuyển đổi âm thanh thành các mẫu tín hiệu điện truyền xuống dây thần kinh thính giác vào vỏ não thính giác. Các micromappers phát hiện ra rằng trong vỏ não thính giác, tần số âm thanh được vẽ bản đồ “phân bố vùng.” Đó là, chúng được tổ chức giống như một cây đàn piano: tần số âm thanh thấp hơn ở một đầu, ở đầu kia là những tần số âm thanh cao hơn.

Cấy ốc tai điện tử không phải là máy trợ thính. Máy trợ thính khuếch đại âm thanh cho những người bị mất thính lực một phần, do ốc tai hoạt động đủ tốt để phát hiện một số âm thanh. Cấy ốc tai dành cho những người bị điếc vì ốc tai bị tổn thương sâu sắc. Bộ cấy thay thế ốc tai, biến âm thanh lời nói thành các xung điện, rồi gửi đến não. Bởi vì Merzenich và các đồng nghiệp của ông không thể hy vọng thiết bị này sánh được với sự phức tạp của một cơ quan tự nhiên với ba nghìn tế bào tóc, nên câu hỏi là, liệu bộ não đã tiến hóa từ việc giải mã các tín hiệu phức tạp đến từ rất nhiều tế bào tóc, đển giải mã các xung điện từ một thiết bị đơn giản hơn rất nhiều? Nếu có thể, điều đó có nghĩa là vỏ não thính giác là có tính dẻo, có khả năng tự sửa đổi để đáp ứng với (thông tin) đầu vào nhân tạo. Bộ cấy bao gồm một máy thu âm thanh, bộ chuyển đổi chuyển âm thanh thành các xung điện và một điện cực được các bác sĩ phẫu thuật đưa vào các dây thần kinh chạy từ tai đến não.

Vào giữa những năm 1960, một số nhà khoa học đã tỏ ra thù địch với ý tưởng cấy ốc tai điện tử. Một số người nói rằng dự án này là bất khả thi. Những người khác cho rằng họ sẽ khiến bệnh nhân điếc có nguy cơ bị tổn hại thêm. Bất chấp rủi ro, các bệnh nhân đã tình nguyện làm cấy ghép. Lúc đầu một số bệnh nhân chỉ nghe thấy tiếng ồn; những người khác chỉ nghe thấy một vài âm thanh, tiếng rít và âm thanh bắt đầu và dừng lại.

Đóng góp của Merzenich là sử dụng những gì ông đã học được từ việc lập bản đồ vỏ não thính giác để xác định kiểu đầu vào mà bệnh nhân cần từ cấy ghép để có thể giải mã lời nói và nơi cấy điện cực. Ông làm việc với các kỹ sư truyền thông để thiết kế ra một thiết bi có thể truyền lời nói phức tạp trên một số lượng nhỏ các kênh băng thông và vẫn có thể hiểu được. Họ đã phát triển một thiết bị cấy ghép đa kênh có độ chính xác cao cho phép người khiếm thính nghe được và thiết kế đã trở thành nền tảng cho một trong hai thiết bị cấy ốc tai điện tử chính hiện nay.

Tất nhiên, điều mà Merzenich mong muốn nhất là kiểm tra độ dẻo một cách trực tiếp. Cuối cùng, ông quyết định thực hiện một thí nghiệm đơn giản, triệt để, trong đó ông sẽ cắt bỏ tất cả các đầu vào cảm giác vào bản đồ não và xem nó phản ứng như thế nào. Ông đến gặp bạn mình và nhà thần kinh học đồng nghiệp Jon Kaas, thuộc Đại học Vanderbilt ở Nashville, người đã làm việc với những con khỉ trưởng thành. Bàn tay của một con khỉ, giống như con người, có ba dây thần kinh chính: dây thần kinh quaydây thần kinh trung tuyến và dây thần kinh trụ. Dây thần kinh trung tuyến truyền tải cảm giác chủ yếu từ giữa bàn tay, hai dây thần kinh còn lại từ hai bên bàn tay. Merzenich cắt dây thần kinh trung tuyến ở một trong những con khỉ để xem bản đồ não của dây thần kinh trung tuyến sẽ phản ứng như thế nào khi tất cả đầu vào bị cắt. Anh quay trở lại San Francisco và chờ đợi.

Hai tháng sau, ông trở lại Nashville. Khi ông vẽ bản đồ cho con khỉ, ông thấy, đúng như dự đoán, phần bản đồ não phục vụ dây thần kinh trung tuyến không có hoạt động nào khi ông chạm vào phần giữa của bàn tay. Nhưng ông bị sốc bởi một thứ khác.

Khi ông vuốt ve mặt ngoài của bàn tay khỉ — những khu vực gửi tín hiệu của chúng qua các dây thần kinh quay và dây thần kinh trụ — bản đồ dây thần trung tuyến sáng lên! Các bản đồ não cho các dây thần kinh quay và dây thần kinh trụ có kích thước gần gấp đôi và xâm chiếm những gì từng là bản đồ dây thần kinh trung tuyến. Và những bản đồ mới này là bản đồ địa hình. Lần này, ông và Kaas, viết ra những phát hiện, gọi những thay đổi này là “ngoạn mục” và sử dụng từ “dẻo” để giải thích sự thay đổi, mặc dù họ đã đặt nó trong dấu ngoặc kép.

Thí nghiệm cho thấy nếu dây thần kinh trung tuyến bị cắt, thì những dây thần kinh khác vẫn tràn đầy đầu vào điện, sẽ chiếm không gian bản đồ không sử dụng để xử lý (thông tin) đầu vào của chúng. Khi nói đến việc phân bổ năng lượng xử lý não, bản đồ não bị chi phối bởi sự cạnh tranh về tài nguyên quý giá và nguyên tắc ‘sử dụng hoặc mất nó.’

Bản chất cạnh tranh của tính dẻo ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Có một cuộc chiến vô tận của các dây thần kinh đang diễn ra bên trong mỗi bộ não của chúng ta. Nếu chúng ta ngừng thực hiện các kỹ năng trí óc/tinh thần của mình, chúng ta sẽ không chỉ quên chúng: không gian bản đồ não dành cho những kỹ năng đó sẽ được chuyển sang cho các kỹ năng chúng ta thực hành. Bạn đã bao giờ tự hỏi mình rằng, “Tôi phải thực hành môn tiếng Pháp, hoặc luyện đàn ghita, hoặc làm toán thường xuyên như thế nào để luôn đặt nó lên hàng đầu?” thì chính là bạn đang đặt ra câu hỏi về tính dẻo cạnh tranh. Bạn đang hỏi về tần suất mà bạn phải luyện tập một hoạt động nào đó để đảm bảo cho không gian trên bản đồ não của nó không bị hoạt động khác chiếm mất.

Tính dẻo cạnh tranh ở những người trường thành thậm chí còn lý giải được một số hạn chế của chúng ta. Hãy nghĩ về sự khó khăn mà đa số người trưởng thành gặp phải khi học một ngoại ngữ thứ hai. Quan điểm thông thường hiện giờ cho rằng khó khăn nảy sinh vì giai đoạn quan trọng cho việc học ngôn ngữ đã kết thúc, để lại cho chúng ta một bộ não quá cứng nhắc, khó thay đổi cấu trúc của nó trên quy mô lớn. Nhưng phát hiện về tính dẻo cạnh tranh còn chỉ ra nhiều điều về nó. Khi chúng ta già đi, chúng ta càng dùng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình thì nó càng chiếm ưu thế trong không giản bản đồ ngôn ngữ của chúng ta. Bởi vì bộ não của chúng ta là nilong/có tính dẻo— và vì tính dẻo lại cạnh tranh— nên rất khó để học một ngôn ngữ mới và chấm dứt sự chuyên chế của tiếng mẹ đẻ.

Nhưng tại sao, nếu điều này là đúng, thì việc học ngôn ngữ thứ hai có dễ dàng hơn không khi chúng ta đang còn nhỏ? Khi ấy không có sự cạnh tranh sao? Không hẳn vậy. Nếu hai ngôn ngữ được học cùng một lúc, trong suốt giai đoạn quan trọng, thì cả hai đều có chỗ đứng. Merzenich nói, quét não cho thấy ở một đứa trẻ song ngữ, mọi âm thanh của hai ngôn ngữ của nó cùng chia sẻ một bản đồ não rộng lớn, một thư viện âm thanh từ cả hai ngôn ngữ.

Tính dẻo cạnh tranh cũng giải thích tại sao rất khó phá bỏ hoặc “quên đi” những thói quen xấu của chúng ta. Đa số chúng ta nghĩ về bộ não như một vật chứa và học hỏi khi đặt một thứ gì đó vào trong não. Khi chúng ta cố gắng phá bỏ một thói quen xấu, chúng ta nghĩ giải pháp chính là đưa một điều gì đó mới mẻ vào trong vật chứa. Nhưng khi chúng ta học được một thói quen xấu, nó xâm chiếm một bản đồ não bộ, và mỗi lần chúng ta lặp lại nó, nó đòi hỏi quyền kiểm soát bản đồ não đó và ngăn chặn việc dùng không gian đó cho những thói quen “tốt”. Đó là lý do tại sao việc “quên đi” thường khó khăn hơn rất nhiều so với học một điều mới, và tại sao giáo dục mầm non lại cực kỳ quan trọng—tốt nhất là nên học điều đúng đắn ngay từ nhỏ, trước khi “thói quen xấu” giành được lợi thế cạnh tranh.

Thí nghiệm khôn khéo tiếp theo của Merzenich là làm cho tính dẻo thần kinh được nhiều nhà khoa học thần kinh biết đến và cuối cùng là đập tan mọi nghi ngờ hơn bất kỳ thí nghiệm về tính dẻo nào trước đây.

Ông vẽ bản đồ tay của một con khỉ trong não. Sau đó ông cắt cụt ngón tay giữa của khỉ. Vài tháng sau, ông vẽ lại bản đồ não của khỉ và phát hiện thấy bản đồ não cho ngón tay bị cắt cụt đã biến mất và phần bản đồ cho những ngón tay liền kề đã phát triển và chiếm lấy không gian ban đầu dành cho bản đồ của ngón tay giữa. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy bản đồ não là năng động, thay đổi, và có một cuộc cạnh tranh để giành ‘bất động sản vỏ não’ và các tài nguyên não bộ được phân bổ theo nguyên tắc ‘dùng nó hay mất nó’.

Merzenich cũng nhận thấy những động vật cùng loài có thể có những bản đồ não tương tự nhau, nhưng chúng không bao giờ giống hệt nhau. Lập vi bản đồ cho phép ông nhìn thấy những điểm khác biệt mà Penfield, với các điện cực lớn, không thể nhìn ra. Ông cũng phát hiện thấy cứ mỗi vài tuần bản đồ của những phần cơ thể bình thường lại thay đổi. Mỗi lần ông lập bản đồ khuôn mặt của một con khỉ bình thường, nó lại có khác biệt rõ rệt. Tính dẻo không cần bạn khiêu khích nó bằng cách cắt dây thần kinh hay cắt cụt. Tính dẻo là một hiện tượng bình thường, và các bản đồ não bộ liên tục thay đổi. Khi ông viết về thí nghiệm mới này, Merzenich cuối cùng đã bỏ dấu ngoặc kép ra khỏi từ “tính dẻo”. Tuy nhiên bất chấp sự tao nhã của thí nghiệm này, những ý kiến phản đối Merzenich không biến mất sau một đêm.

Ông bật cười khi nói về nó. “Để tôi kể cho anh nghe chuyện gì xảy ra khi tôi bắt đầu tuyên bố rằng bộ não có tính dẻo dai. Tôi vấp phải sự chống đối, thù địch từ nhiều người. Tôi phải nghe những lời đánh giá như ‘Điều này nghe thật thú vị nếu nó đúng là sự thật, nhưng không thể nào là sự thật đâu.’ Cứ như thể tôi đã ngụy tạo điều đó.’

Vì Merzenich đã lập luận rằng các bản đồ não có thể thay đổi ranh giới và vị trí của chúng cũng như thay đổi các chức năng của chúng khi đến tuổi trưởng thành, những người theo chủ nghĩa cục bộ đã phản đối ông. Ông nói “Hầu như những người tôi biết trong khoa học thần kinh chính thống đều nghĩ rằng đây là trò đùa cợt nhả— rằng thí nghiệm này làm cẩu thả, rằng các hiệu ứng được mô tả là không chắc chắn. Nhưng trên thực tế, thí nghiệm đã được thực hiện đủ số lần, khiến tôi nhận ra quan điểm của số đông là kiêu ngạo và không thể chứng minh được.”

Một nhân vật quan trọng đã lên tiếng nghi ngờ là Torsten Wiesel. Mặc dù Wiesel chính là người đã chứng minh rằng tính dẻo thực sự tồn tại trong giai đoạn quan trọng, nhưng ông vẫn chống lại quan điểm cho rằng nó cũng tồn tại ở những người trưởng thành, và viết rằng ông và Hubel “tin chắc rằng một khi các kết nối ở vỏ não đã được thiết lập ở dạng trưởng thành của chúng thì chúng sẽ ở mãi vị trí đó.” Ông quả thực đã giành được giải Nobel cho việc xác định được nơi xảy ra quá trình xử lý hình ảnh, một phát hiện được xem là một trong những thắng lợi lớn nhất của chủ nghĩa cụ bộ. Bây giờ Wiesel đã chấp nhận quan điểm về tính dẻo ở người trưởng thành và nhẹ nhàng thừa nhận trên báo in rằng ông đã sai lầm trong một thời gian dài và những thí nghiệm tiên phong của Merzemch cuối cùng đã khiến ông và các đồng nghiệp của ông thay đổi quan điểm. Những nhà cục bộ cứng đầu cũng chú ý khi thấy một người đàn ông tầm cỡ như Wiesel thay đổi quan điểm của mình.

Điều gây thất vọng nhất là,” Merzenich nói, “là tôi nhận thấy tính dẻo thần kinh có ý nghĩa tiềm năng cho trị liệu y khoa – để giải thích cho các loại bệnh lý thần kinh và tâm thần ở con người. Và chẳng có ai thèm chú ý.”

Vì sự thay đổi tính dẻo là một quá trình, Merzenich nhận thấy ông chỉ có thể hiểu được nó nếu ông nhìn thấy nó xuất hiện trong não bộ theo thời gian. Ông đã cắt dây thần kinh trung tuyến của một con khỉ và sau đó nhiều lần lập bản đồ não trong vài tháng.

Bản đồ đầu tiên, ngay sau khi ông cắt dây thần kinh, cho thấy đúng như ông dự đoán, bản đồ não cho dây thần kinh trung tuyến hoàn toàn im lặng khi vuốt nhẹ vào giữa bàn tay khỉ. Nhưng khi ông vuốt ve phần bàn tay được phục vụ bởi các dây thần kinh bên ngoài, thì dây thần kinh trung tuyến im lặng trên bản đồ bật sáng ngay lập tức. Bản đồ của các dây thần kinh bên ngoài, là dây thần kinh quay và dây thần kinh trụ, hiện đã xuất hiện trong không gian bản đồ của dây thần kinh trung tuyến. Những bản đồ này xuất hiện rất nhanh, cứ như thể chúng đã ẩn nấp ở đó sẵn rồi, và bây giờ chúng “lộ diện”.

Vào ngày thứ hai mươi hai Merzenich lập lại bản đồ não khỉ. Các bản đồ của dây thần kinh quay và dây thần kinh trụ, từng bị thiếu chi tiết khi lần đầu chúng xuất hiện, giờ đã trở nên tinh tế và chi tiết hơn và mở rộng chiếm gần như toàn bộ bản đồ của dây thần kinh trung tuyến. (Một bản đồ lúc đầu bị thiếu chi tiết; một bản đồ đã cải tiến có nhiều chi tiết hơn và nhờ đó truyền tải được nhiều thông tin hơn). Đến ngày thứ 144, toàn bộ bản đồ đã có mọi chi tiết như một bản đồ bình thường. Bằng cách lập nhiều bản đồ não theo thời gian, Merzenich quan sát thấy các bản đồ mới đang thay đổi ranh giới của chúng, có nhiều chi tiết hơn và thậm chí di chuyển xung quanh não. Trong một trường hợp, ông thậm chí còn thấy một bản đồ biến mất hoàn toàn, giống như Atlantis.

Có vẻ hợp lý khi cho rằng nếu các bản đồ hoàn toàn mới đang hình thành, thì các kết nối mới phải được hình thành giữa các tế bào thần kinh. Để giúp bạn hiểu được quá trình này, Merzenich đã viện dẫn những ý tưởng của Donald O. Hebb, một nhà tâm lý học hành vi người Canada, từng làm việc với Penfield. Năm 1949 Hebb cho rằng việc học tập đã liên kết các tế bào thân kinh theo những cách mới mẻ. Ông cũng cho rằng khi hai tế bào thần kinh liên tục bắn ra cùng một lúc (hoặc khi một tế bào bắn ra, khiến tế bào khác cũng bắn theo) thì những thay đổi hóa học xảy ra ở cả hai tế bào thần kinh, khiến hai tế bào có xu hướng kết nối với nhau mạnh hơn. Quan điểm của Hebb- trên thực tế từng được nêu ra bởi Freud 60 năm trước- đã được tóm tắt bởi nhà khoa học thần kinh Carla Shatz: Neurons that fire together wire together. (Những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau). 

Do đó, lý thuyết của Hebb cho rằng cấu trúc tế bào thần kinh có thể thay đổi được bởi kinh nghiệm. Theo Hebb, lý thuyết mới của Merzenich là các tế bào thần kinh trong bản đồ não phát triển các kết nối mạnh mẽ với nhau khi chúng được kích hoạt cùng một lúc. Và Merzenich nghĩ, nếu bản đồ có thể thay đổi, thì có lý do để hy vọng rằng những người sinh ra có vấn đề trong các khu vực xử lý-bản đồ não— những người gặp vấn đề về học tập, các vấn đề tâm lý, đột quỵ hoặc chấn thương não – có thể hình thành bản đồ mới nếu ông ta có thể giúp họ hình thành các kết nối tế bào thần kinh mới, bằng cách khiến các tế bào thần kinh khỏe mạnh của họ bắn điện cùng nhau và kết nối với nhau.

Bắt đầu từ cuối những năm 1980, Merzenich đã thiết kế hoặc tham gia vào các nghiên cứu xuất sắc để kiểm tra xem bản đồ não có dựa trên thời gian hay không và liệu các ranh giới và chức năng của chúng có thể được điều khiển bằng cách “chơi” với thời gian nhập liệu vào chúng hay không.

Trong một thí nghiệm tài tình, Merzenich đã lập bản đồ bàn tay của một con khỉ bình thường, sau đó khâu hai ngón tay của con khỉ lại với nhau, để cả hai ngón tay di chuyển như một. Sau vài tháng cho phép con khỉ sử dụng các ngón tay bị khâu lại đó, ông lập lại bản đồ não của khỉ. Hai bản đồ của các ngón tay riêng biệt ban đầu giờ đã hợp nhất thành một bản đồ. Nếu những người làm thí nghiệm chạm vào bất kỳ điểm nào ở một trong hai ngón tay, bản đồ đơn mới này sẽ sáng lên. Bởi vì tất cả các chuyển động và cảm giác trong những ngón tay đó luôn luôn xảy ra đồng thời, nên chúng đã tạo thành cùng một bản đồ. Thí nghiệm cho thấy rằng thời gian của đầu vào các tế bào thần kinh trong bản đồ là chìa khóa để hình thành nó – các tế bào thần kinh bắn cùng lúc theo thời gian sẽ kết nối với nhau để tạo thành một bản đồ.

Các nhà khoa học khác đã kiểm tra các phát hiện của Merzenich trên con người. Một số người được sinh ra với các ngón tay dính vào nhau, một tình trạng được gọi là syndactyly hay “hội chứng ngón tay có màng.” Khi họ lập bản đồ não của hai người mắc tình trạng này, quét não phát hiện thấy mỗi người có một bản đồ lớn cho các ngón tay dính vào nhau thay vì hai bản đồ riêng biệt.

Sau khi các bác sỹ phẫu thuật tách các ngón tay có màng ra, bộ não của các đối tượng lại được vẽ bản đồ não lại, và hai bản đồ riêng biệt đã xuất hiện cho hai ngón tách biệt. Vì các ngón tay có thể cử động độc lập, nên các tế bào thần kinh không còn bắn điện ra cùng một lúc như trước nữa. Điều này minh họa cho một nguyên tắc khác của tính dẻo: nếu bạn tách các tín hiệu đến các tế bào thần kinh kịp thời thì bạn sẽ tạo được các bản đồ não riêng biệt. Trong khoa học thần kinh, phát hiện này được tóm tắt như sau: Các tế bào thần kinh bắn điện riêng thì có những liên kết riêng (Neurons that fire apart wire apart)— hoặc các tế bào thần kinh không đồng bộ hóa thì không liên kết với nhau.

Trong thí nghiệm tiếp theo theo trình tự, Merzenich tạo ra một bản đồ cho một ngón tay không tồn tại chạy vuông góc với các ngón tay khác. Nhóm nghiên cứu đã kích thích đồng thời cả năm ngón tay của một con khỉ, 500 lần một ngày trong hơn một tháng, ngăn chặn con khỉ sử dụng các ngón tay của nó one at a time. Chẳng mấy chốc bản đồ não của khỉ đã có một bản đồ ngón tay mới, bị kéo dài, trong đó cả năm ngón tay nhập lại với nhau. Bản đồ mới này chạy vuông góc với các ngón tay khác, và tất cả các đầu ngón tay là một phần của nó, thay vì là một phần của các bản đồ ngón tay riêng lẻ của chúng, đã bắt đầu biến mất do không dùng đến.

Trong thí nghiệm cuối cùng và xuất sắc nhất, Merzenich và nhóm của ông đã chứng minh rằng các bản đồ không thể dựa trên giải phẫu. Họ lấy một miếng da nhỏ từ một ngón tay, và – đây là điểm mấu chốt – với dây thần kinh đi đến bản đồ não của nó vẫn gắn vào, phẫu thuật ghép da vào một ngón tay bên cạnh. Bây giờ mảnh da và dây thần kinh của nó đã được kích thích mỗi khi ngón tay mà nó được gắn vào được di chuyển hoặc chạm vào trong quá trình sử dụng hàng ngày. Theo mô hình giải phẫu cứng, các tín hiệu vẫn phải được gửi từ da dọc theo dây thần kinh của nó đến bản đồ não cho ngón tay mà da và dây thần kinh ban đầu xuất phát. Thay vào đó, khi nhóm nghiên cứu kích thích các mảng da, bản đồ của ngón tay mới của nó đã phản hồi. Bản đồ cho miếng vá da di chuyển từ bản đồ não của ngón tay ban đầu sang ngón tay mới, bởi vì cả miếng vá và ngón tay mới đều được kích thích đồng thời.

Trong một vài năm ngắn ngủi, Merzenich đã phát hiện ra rằng bộ não người trưởng thành là có tính dẻo, đã thuyết phục những người hoài nghi trong cộng đồng khoa học, và chứng minh rằng kinh nghiệm làm thay đổi bộ não. Nhưng ông vẫn chưa lý giải được một bí ẩn quan trọng: làm thế nào các bản đồ tự tổ chức lại bản thân chúng để trở thành (bản đồ) địa hình và hoạt động theo một cách có lợi cho chúng ta.

Khi chúng tôi nói một bản đồ não được tổ chức theo địa hình, chúng tôi đang muốn nói rằng bản đồ được sắp xếp theo như thứ tự cơ thể. Chẳng hạn, ngón giữa của chúng ta nằm giữa ngón trỏ và ngón đeo nhẫn. Điều tương tự cũng đúng với bản đồ não của chúng ta: bản đồ cho ngón giữa nằm giữa bản đồ cho ngón trỏ và ngón đeo nhẫn của chúng ta.

Tổ chức địa hình là hiệu quả, bởi vì điều đó có nghĩa là các phần của bộ não thường hoạt động cùng nhau nằm gần nhau trong bản đồ não, do đó tín hiệu không phải đi xa trong bộ não.

Câu hỏi đặt ra cho Merzenich là, làm thế nào trật tự địa hình này xuất hiện trong bản đồ não? Câu trả lời mà ông và nhóm của ông đưa ra thật tài tình. Một trật tự địa hình xuất hiện bởi vì nhiều hoạt động hàng ngày của chúng tôi liên quan đến việc lặp đi lặp lại các chuỗi theo một trật tự cố định.

Khi chúng ta nhặt một vật có kích thước bằng quả táo hoặc bóng chày, chúng ta thường nắm chặt nó trước bằng ngón tay cái và ngón trỏ, sau đó quấn từng ngón tay còn lại xung quanh nó. Vì ngón tay cái và ngón trỏ thường chạm vào gần như cùng một lúc, gửi tín hiệu của chúng đến não gần như đồng thời, bản đồ ngón tay cái và bản đồ ngón trỏ có xu hướng hình thành gần nhau trong não. (Neurons that fire together wire together.) Khi chúng ta tiếp tục quấn tay quanh vật thể, ngón tay giữa của chúng ta sẽ chạm vào cạnh ngón tay trỏ, do đó bản đồ não của nó sẽ có xu hướng nằm bên cạnh ngón trỏ và cách xa ngón tay cái. Khi trình tự nắm phổ biến này – đầu tiên là ngón cái, ngón trỏ thứ hai, ngón giữa thứ ba – được lặp đi lặp lại hàng ngàn lần, nó dẫn đến một bản đồ não trong đó bản đồ ngón tay cái nằm cạnh bản đồ ngón trỏ, bản đồ ngón trỏ nằm cạnh bản đồ ngón giữa, vân vân… Các tín hiệu có xu hướng đến vào những thời gian riêng biệt, như ngón tay cái và ngón út, có bản đồ não ở xa hơn, bởi vì các tế bào thần kinh bắn xa nhau thì có dây thần kinh cách xa nhau.  

Hầu như tất cả bản đồ não hoạt động bằng cách nhóm các sự kiện xảy ra cùng nhau. Như chúng ta đã thấy, bản đồ thính giác được sắp xếp giống như một cây đàn piano, với các vùng bản đồ cho các nốt thấp ở một đầu và những nốt cao ở đầu khác. Tại sao nó có trật tự như vậy? Bởi vì các tần số thấp của âm thanh có xu hướng đi cùng với nhau trong tự nhiên. Khi chúng ta nghe một người có tông giọng trâm, hầu hết các tần số đều thấp, vì vậy chúng được nhóm lại với nhau. Sự xuất hiện của Bill Jenkins tại phòng thí nghiệm của Merzenich đã mở ra một giai đoạn nghiên cứu mới giúp Merzenich phát triển các ứng dụng thực tế cho những khám phá của ông. Jenkins, được đào tạo như một nhà tâm lý học hành vi, đặc biệt quan tâm đến việc hiểu cách chúng ta học tập. Ông đề nghị họ dạy động vật học các kỹ năng mới, để quan sát việc học ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh và bản đồ não của chúng như thế nào.

Trong một thí nghiệm cơ bản, họ đã lập bản đồ vỏ não giác quan của một con khỉ. Sau đó, họ huấn luyện nó chạm vào một đĩa quay bằng đầu ngón tay, với áp lực vừa phải trong mười giây để có được phần thưởng là một miếng chuối sấy. Điều này đòi hỏi khỉ phải hết sức chú ý, học cách chạm vào đĩa rất nhẹ và phán đoán thời gian chính xác. Sau hàng ngàn lần thử nghiệm, Merzenich và Jenkins đã lập lại bản đồ bộ não của con khỉ và thấy rằng khu vực lập bản đồ đầu ngón tay của con khỉ đã mở rộng khi con khỉ đã học cách chạm vào đĩa với áp lực phù hợp. Thí nghiệm cho thấy rằng khi một động vật được thúc đẩy để học tập, não sẽ phản ứng lại một cách dẻo dai.

Thí nghiệm cũng cho thấy rằng khi bản đồ não trở nên lớn hơn, các tế bào thần kinh riêng lẻ sẽ hoạt động hiệu quả hơn trong hai giai đoạn. Lúc đầu, khi khỉ được huấn luyện, bản đồ cho đầu ngón tay phát triển, chiếm nhiều không gian hơn. Nhưng sau một thời gian, các tế bào thần kinh riêng lẻ trong bản đồ trở nên hiệu quả hơn, và cuối cùng cần ít tế bào thần kinh hơn để thực hiện nhiệm vụ.

Khi một đứa trẻ lần đầu tiên học chơi piano, nó có xu hướng sử dụng toàn bộ phần thân trên của mình – cổ tay, cánh tay, vai – để chơi từng nốt nhạc. Ngay cả cơ mặt cũng thắt lại thành một cái nhăn mặt. Với sự tập luyện, nghệ sĩ piano tài năng ngừng sử dụng các cơ không liên quan và chỉ sử dụng ngón tay chính xác để chơi nốt nhạc. Anh ta phát triển một “cú chạm nhẹ hơn” và nếu anh ta trở nên khéo léo, anh ta sẽ phát triển “vẻ khoan thai, thanh nhã” và sự thư thái khi chơi đàn. Nguyên nhân là do đứa trẻ đi từ việc sử dụng một số lượng lớn tế bào thần kinh đến chỉ cần một số ít tế bào thần kinh thích hợp, phù hợp với nhiệm vụ. Việc sử dụng tế bào thần kinh hiệu quả hơn này xảy ra bất cứ khi nào chúng ta trở nên thông thạo một kỹ năng và nó giải thích lý do tại sao chúng ta không nhanh chóng dùng hết không gian bản đồ não khi chúng ta thực hành hoặc thêm các kỹ năng vào bộ sưu tập của mình.

Merzenich và Jenkins cũng chỉ ra rằng các tế bào thần kinh riêng lẻ trở nên chọn lọc hơn khi tập luyện. Mỗi tế bào thần kinh trong bản đồ não cho cảm giác chạm có một “trường tiếp nhận”, một phân đoạn trên bề mặt da “thông báo” với nó. Khi những con khỉ được huấn luyện để cảm nhận đĩa, các trường tiếp nhận của từng nơ-ron riêng lẻ trở nên nhỏ hơn, chỉ bắn khi các phần nhỏ của đầu ngón tay chạm vào đĩa. Do đó, mặc dù thực tế là kích thước của bản đồ não tăng lên, mỗi tế bào thần kinh trong bản đồ chịu trách nhiệm cho một phần nhỏ hơn của bề mặt da, cho phép động vật có khả năng phân biệt về xúc giác tốt hơn. Nhìn chung, bản đồ trở nên chính xác hơn.

Merzenich và Jenkins cũng nhận thấy khi các tế bào thần kinh được đào tạo và trở nên hiệu quả hơn, thì chúng có thể xử lý nhanh hơn. Điều này có nghĩa là tốc độ mà chúng ta thường nghĩ, bản thân nó là tính dẻo dai. Tốc độ của suy nghĩ là điều thiết yếu cho sự sinh tồn của chúng ta. Các sự kiện thường xảy ra nhanh chóng và nếu bộ não suy nghĩ chậm chạp, nó có thể bỏ lỡ thông tin quan trọng. Trong một thí nghiệm, Merzenich và Jenkins đã huấn luyện thành công những con khỉ phân biệt được các âm thanh trong khoảng thời gian ngắn hơn. Các tế bào thần kinh được đào tạo đã bắn ra nhanh hơn để đáp ứng với các âm thanh, xử lý chúng trong thời gian ngắn hơn và cần ít thời gian hơn để “nghỉ ngơi” giữa các lần bắn điện. Các tế bào thần kinh nhanh hơn cuối cùng dẫn đến suy nghĩ nhanh hơn – không phải là vấn đề nhỏ – bởi vì tốc độ suy nghĩ là một thành phần quan trọng của trí thông minhCác bài kiểm tra IQ, giống như cuộc sống, không chỉ đo xem bạn có thể có câu trả lời đúng hay không mà còn bạn mất bao lâu để bạn có được câu trả lời đúng.

Họ cũng phát hiện thấy khi họ huấn luyện một kỹ năng cho một con vật, các tế bào thần kinh của nó không chỉ bắn nhanh hơn, mà bởi vì chúng bắn nhanh hơn nên tín hiệu của chúng rõ ràng hơn. Các tế bào thần kinh nhanh hơn có khả năng bắn điện đồng bộ với nhau – trở thành những người nhóm chơi tốt hơn – kết nối với nhau nhiều hơn và tạo thành các nhóm tế bào thần kinh phát ra tín hiệu rõ ràng và mạnh hơn. Đây là một điểm rất quan trọng, bởi vì một tín hiệu mạnh mẽ có tác động lớn hơn đến não. Khi chúng ta muốn nhớ một điều gì đó mà chúng ta đã nghe, chúng ta phải nghe nó thật rõ, bởi vì một bộ nhớ có thể chỉ rõ ràng như tín hiệu ban đầu của nó.

Cuối cùng, Merzenich phát hiện ra rằng chú ý kỹ lưỡng là điều cần thiết để thay đổi tính dẻo về lâu về dài. Trong nhiều thí nghiệm, ông thấy rằng những thay đổi lâu dài chỉ xảy ra khi những chú khỉ của ông chú ý kỹ lưỡng. Khi động vật thực hiện các nhiệm vụ một cách tự động mà không tập trung chú ý, chúng đã thay đổi bản đồ não của chúng, nhưng những thay đổi không kéo dài. Chúng tôi thường ca ngợi “khả năng đa nhiệm”. Mặc dù bạn có thể học khi bạn phân chia sự chú ý của mình, nhưng sự chú ý bị phân tán đó không dẫn đến việc thay đổi bản đồ não của bạn.

Khi Merzenich còn là một cậu bé, người em họ đầu tiên của mẹ ông, là một giáo viên tiểu học ở Wisconsin, đã được chọn là giáo viên của năm trên toàn nước Mỹ. Sau buổi lễ tại Nhà Trắng, cô đến thăm gia đình Merzenich ở Oregon.

Ông nhớ lại, “Mẹ tôi đã hỏi một câu ngớ ngẩn mà bạn thường hỏi khi trò chuyện:

‘Nguyên tắc quan trọng nhất của em trong dạy học là gì?’ Và em họ của mẹ đã trả lời: ‘Chà, chị kiểm tra học sinh khi chúng đến trường, và chị xác định xem liệu chúng có thông minh không. Và nếu chúng thông minh, chị sẽ chú ý đến chúng và chị sẽ không lãng phí thời gian cho những học sinh kém thông minh.’ Đó là những gì cô ấy nói. Và bạn biết đấy, bằng cách này hay cách khác, điều đó thể hiện qua cách mọi người đối xử với những đứa trẻ khác biệt, mãi mãi. Thật là tàn khốc khi tưởng tượng rằng tài nguyên thần kinh của bạn là điều gì đó vĩnh viễn và lâu dài và không thể được cải thiện và thay đổi đáng kể.”

Merzenich giờ đã lưu tâm đến công việc của Paula Tallal tại Rutgers, người đã bắt đầu phân tích lý do tại sao trẻ em gặp khó khăn trong việc học đọc. Đâu đó khoảng 5 đến 10 phần trăm trẻ em mẫu giáo bị khuyết tật ngôn ngữ khiến chúng khó đọc, viết hoặc thậm chí làm theo hướng dẫn. Đôi khi những đứa trẻ này được cho là mắc chứng khó đọc (dyslexic).

Các bé bắt đầu nói chuyện bằng cách thực hành kết hợp phụ âm-nguyên âm, đọc “da, da, da” và “ba, ba, ba.” Trong nhiều ngôn ngữ, những từ đầu tiên của chúng thường bao gồm những kết hợp như vậy. Trong tiếng Anh, những từ đầu tiên của bé thường là “mama” và “dada”, “pee pee”, v.v. Nghiên cứu của Tallal cho thấy những trẻ em bị khuyết tật ngôn ngữ thì có vấn đề về xử lý thính giác với các tổ hợp nguyên âm phụ âm phổ biến được nói nhanh và được gọi là “những phần nói nhanh của lời nói”. Những đứa trẻ gặp khó khăn khi nghe chúng một cách chính xác và kết quả là đọc lại chúng một cách (thiếu) chính xác.

Merzenich tin rằng các tế bào thần kinh ở vỏ não thính giác của những đứa trẻ này bắn ra quá chậm, vì vậy chúng không thể phân biệt giữa hai âm thanh rất giống nhau hoặc chắc chắn, nếu hai âm thanh xảy ra gần nhau, thì đâu là âm đầu tiên và đâu là âm thứ hai.

Thường thì chúng không nghe được những phần đầu của âm tiết của những thay đổi âm thanh trong âm tiết. Thông thường tế bào thần kinh, sau khi chúng xử lý một âm thanh, thì sẵn sàng bắn lại sau khoảng 30 mili giây. 80% trẻ em bị khiếm khuyết ngôn ngữ mất ít nhất ba lần khoảng thời gian đó, do đó chúng bị mất một lượng lớn thông tin ngôn ngữ. Khi kiểm tra những kiểu bắn của nơ-ron của chúng thì thấy các tín hiệu không rõ ràng.

Nghe không đúng dẫn đến những yếu kém trong tất cả các nhiệm vụ về ngôn ngữ. Chúng yếu về từ vựng, hiểu, đọc, nói và viết. Bởi vì chúng tốn quá nhiều năng lượng để giải mã các từ ngữ, nên chúng có xu hướng sử dụng các câu ngắn hơn và không thể vận dụng trí nhớ của chúng cho các câu dài hơn.

Việc xử lý ngôn ngữ của chúng giống trẻ con hơn hoặc “bị chậm” và chúng vẫn cần thực hành phân biệt “da, da, da” và “ba, ba, ba.

Khi Tallal lần đầu phát hiện ra vấn đề của chúng, cô sợ rằng “những đứa trẻ này đã bị ‘hỏng’ và “bạn không thể làm gì được” để sửa chữa những khiếm khuyết não bộ cơ bản của chúng. Nhưng đó là trước khi cô và Merzenich hợp tác với nhau.

Năm 1996 Merzenich, Paula Tallal, Bill Jenkins, và một trong những đồng nghiệp của Tallal, nhà tâm lý học Steve Miller, đã thành lập trung tâm Science Learning dành cho việc vận dụng nghiên cứu về tính dẻo thần kinh để giúp mọi người điều chỉnh lại bộ não.

Trụ sở chính ở Rotunda, một kiệt tác nghệ thuật Beaux với mái vòm bằng kính hình elip, cao 120 feet, các cạnh được sơn bằng lá vàng 24 karat, nằm ngay trung tâm thành phố Oakland, California. Khi bạn bước vào đó, bạn như đi vào một thế giới khác. Các nhân viên của Science Learning bao gồm các nhà tâm lý học trẻ em, các nhà nghiên cứu về tính dẻo não bộ, các chuyên gia về động lực của con người, các nhà nghiên cứu các bệnh về lời nói, các kỹ sư, lập trình viên và các nhà làm phim hoạt hình. Bàn làm việc của các nhà nghiên cứu đó được tắm trong ánh sáng tự nhiên, có thể nhìn lên mái vòm tuyệt đẹp.

Fast ForWord là tên của chương trình đào tạo mà họ đã phát triển cho trẻ em bị khiếm khuyết về ngôn ngữ và học tập. Chương trình thực hiện mọi chức năng não bộ cơ bản liên quan đến ngôn ngữ, từ việc giải mã âm thanh đến đọc hiểu – một loại đào tạo chéo.

Chương trình cung cấp bảy bài tập dành cho não bộ. Một người dạy các em cải thiện khả năng phân biệt các âm ngắn và dài. Một con bò bay ngang qua màn hình máy tính, tạo ra một loạt âm thanh moo moo. Đứa trẻ phải bắt con bò bằng con trỏ máy tính và giữ nó bằng cách ấn nút chuột. Sau đó, đột nhiên độ dài của âm thanh moo thay đổi tinh tế. Lúc này đứa trẻ phải thả con bò ra và để nó bay đi. Một đứa trẻ thả cho bò bay đi ngay sau khi âm thanh thay đổi điểm số. Trong một trò chơi khác, trẻ học cách xác định các tổ hợp nguyên âm phụ âm dễ nhầm lẫn, chẳng hạn như “ba” và “da”, đầu tiên ở tốc độ chậm hơn so với chúng được nói trong ngôn ngữ bình thường, và sau đó với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Một trò chơi khác dạy cho trẻ em nghe lướt nhanh hơn (âm thanh như “whooooop”). Một người khác dạy chúng nhớ và kết hợp âm thanh. “Những Phần được nói nhanh của lời nói” được sử dụng trong suốt các bài tập nhưng được điều chỉnh chậm lại với sự trợ giúp của máy tính, để những đứa trẻ bị khiếm khuyết ngôn ngữ có thể nghe được chúng và phát triển bản đồ rõ ràng cho chúng; sau đó dần dần, qua các bài tập, chúng được tăng tốc. Bất cứ khi nào đạt được mục tiêu, một thứ gì đó vui nhộn xảy ra: nhân vật trong phim hoạt hình ăn câu trả lời, bị khó tiêu, trên khuôn mặt của nó bộc lộ vẻ hài hước, hoặc làm một số động tác tát khiến khiến trẻ chú ý. “Phần thưởng” này là một tính năng quan trọng của chương trình, bởi vì mỗi lần đứa trẻ được thưởng, não của nó sẽ tiết ra các chất dẫn truyền thần kinh như dopamine và acetylcholine, giúp củng cố những thay đổi bản đồ não mà nó vừa thực hiện. (Dopamine củng cố phần thưởng và acetylcholine giúp não “điều chỉnh” và tăng cường trí nhớ.) Trẻ em gặp vấn đề nhẹ hơn thường làm việc với chương trình Fast ForWord một giờ bốn mươi phút mỗi ngày, năm ngày một tuần, kéo dài trong vài tuần, và những trẻ gặp khó khăn nghiêm trọng làm trong tám đến mười hai tuần.

Kết quả nghiên cứu đầu tiên, được báo cáo trên tạp chí Science vào tháng 1 năm 1996, rất đáng chú ý. Trẻ em bị khiếm khuyết ngôn ngữ được chia thành hai nhóm, một nhóm thực hiện Fast ForWord và nhóm kiểm soát thực hiện một trò chơi trên máy tính tương tự nhưng không đào tạo quá trình thời gian hoặc sử dụng lời nói được sửa đổi. Hai nhóm có độ tuổi, IQ và kỹ năng xử lý ngôn ngữ tương đương. Những đứa trẻ làm Fast ForWord đã đạt được tiến bộ đáng kể trong các bài kiểm tra nói, ngôn ngữ và xử lý-thính giác tiêu chuẩn, kết thúc với điểm số ngôn ngữ bình thường hoặc tốt hơn-bình thường và giữ được thành tích khi được kiểm tra lại sáu tuần sau khi đào tạo.

Chúng đã tiến bộ hơn nhiều so với những trẻ trong nhóm kiểm soát. Nghiên cứu sâu hơn đã theo dõi năm trăm trẻ em tại ba mươi lăm địa điểm – bệnh viện, nhà ở và phòng khám.

Tất cả đều được làm test kiểm tra ngôn ngữ theo tiêu chuẩn trước và sau khi đào tạo Fast ForWord. Nghiên cứu cho thấy khả năng hiểu được ngôn ngữ của đa số trẻ được bình thường trở lại sau khi làm Fast ForWord. Trong nhiều trường hợp, khả năng hiểu của chúng tăng lên trên mức bình thường.

Một đứa trẻ trung bình tham gia chương trình đã tiến lên 1,8 năm phát triển ngôn ngữ trong sáu tuần, tiến bộ nhanh đáng kể. Một nhóm Stanford đã quét não của hai mươi đứa trẻ mắc chứng khó đọc, trước và sau khi tham gia Fast ForWord. Các lần quét não ban đầu cho thấy  trẻ sử dụng các phần khác nhau trong não để đọc hơn những đứa trẻ bình thường. Sau khi tham gia Fast ForWord, quét não cho thấy bộ não của chúng đã bắt đầu bình thường lại. (Chẳng hạn, hoạt động ở vỏ não thái dương trái đạt mức trung bình, và hình ảnh quét não của chúng bắt đầu cho thấy các mô hình tương tự như những đứa trẻ không gặp vấn đề về đọc.)

Willy Arbor là một đứa trẻ bảy tuổi sống ở Tây Virginia. Cậu có mái tóc đỏ và mặt đầy tàn nhang, thuộc nhóm Hướng đạo sinh, thích đến trung tâm mua sắm, và mặc dù chỉ cao hơn bốn feet nhưng lại rất thích môn đấu vật. Cậu ta vừa trải qua chương trình Fast ForWord và đã thay đổi. “Vấn đề chính của Willy là nghe rõ lời nói của người khác”, mẹ cậu cho biết. “Gỉa sử tôi nói từ ‘copy’ và thằng bé sẽ nghĩ tôi nói ‘coffee’. Nếu có tiếng động nào xung quanh thì thằng bé sẽ rất khó nghe. Nó bị trầm uất khi đi học mẫu giáo. Bạn có thể nhìn thấy sự lo lắng của thằng bé. Nó có những thói quen thường thấy khi căng thẳng như nhai quần áo, hoặc tay áo, bởi vì các bạn khác đều trả lời đúng, còn thằng bé thì không. Giáo viên đã khuyên là nên cho thằng bé học lại lớp một. Vì “Willy gặp khó khăn khi đọc.”

“Willy,” mẹ bé tiếp tục, “không thể nghe được sự thay đổi về cao độ giọng nói một cách chính xác. Vì vậy, thằng bé không thể biết được khi nào một người đang kêu lên hay chỉ là một câu nói chung chung, và thằng bé đã không nắm bắt được những lời nói suông. Thật khó để nó đọc được cảm xúc của mọi người. Không nhận ra âm vực cao và thấp của giọng nói, thằng bé không nghe được tiếng wow khi mọi người phấn khích. Với thằng bé, mọi thứ đều giống nhau.”

Willy được đưa đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã chẩn đoán “vấn đề thính giác” của cậu là do một chứng rối loạn xử lý thính giác bắt nguồn từ bộ não. Cậu gặp khó khăn trong việc ghi nhớ các chuỗi từ vì hệ thống thính giác của cậu rất dễ bị quá tải. “Nếu bạn đưa cho cậu ấy nhiều hơn ba chỉ dẫn, chẳng hạn như ‘vui lòng đặt giày lên gác – cất chúng vào tủ – sau đó xuống ăn tối’, thì cậu ấy sẽ quên chúng. Cậu ấy sẽ tháo giày ra, bước xuống lầu và hỏi ‘Mẹ muốn con làm gì?’ Giáo viên thường xuyên phải lặp lại hướng dẫn. “Mặc dù cậu ta có vẻ là một đứa trẻ có năng khiếu – cậu ta giỏi toán – những vấn đề của cậu ta cũng giữ cậu lại trong vùng đó.”

Mẹ cậu đã phản đối việc cho Willy học lại lớp một và suốt mùa hè bà đã gửi cậu đến học chương trình Fast ForWord trong tám tuần.

“Trước khi thằng bé làm Fast ForWord,” mẹ cậu nhớ lại, “người ta đã đặt thằng bé ngồi trước máy tính, và thằng bé đã rất căng thẳng. Tuy nhiên, với chương trình này, thằng bé đã dành một trăm phút mỗi ngày trong 8 tuần cho máy tính. Thằng bé thích làm điều đó và thích cách tính điểm bởi vì nó có thể thấy mình ngày càng tiến bộ, “mẹ cậu nói. Khi thằng bé tiến bộ, nó có thể nhận thức được sự thay đổi trong lời nói, đọc cảm xúc của người khác tốt hơn và ít lo lắng hơn. “Rất nhiều thay đổi đến với thằng bé. Khi nó mang bài thi giữa kỳ về nhà, nó nói: ‘Điểm tốt hơn năm ngoái, mẹ ạ.’ Thằng bé bắt đầu mang về nhà điểm A và B trên bài thi của mình nhiều hơn- một sự khác biệt đáng chú ý … Bây giờ, Con có thể làm điều này. Đây là điểm số của con. Con có thể đạt điểm cao hơn.’ Tôi cảm thấy như lời cầu nguyện của mình được đáp lại, Thật tuyệt vời. ” Một năm sau thằng bé tiếp tục tiến bộ.

Nhóm của Merzenich bắt đầu nghe rằng Fast ForWord đang có một số hiệu ứng lan tỏa. Chữ viết tay của trẻ được cải thiện. Nhiều phụ huynh báo cáo rằng con họ đã bắt đầu tập trung và chú ý bền vững hơn. Merzenich cho rằng những lợi ích đáng ngạc nhiên này đã xảy ra vì Fast ForWord đưa đến những tiến bộ trong hoạt động trí óc.

Một trong những hoạt động quan trọng nhất của não bộ – một hoạt động mà chúng ta thường không nghĩ tới – là xác định thời gian mọi việc diễn ra mất bao lâu hoặc xử lý thời gian. Bạn không thể di chuyển đúng, nhận thức đúng hoặc dự đoán đúng nếu bạn không thể xác định các sự việc kéo dài bao lâu. Merzemch phát hiện ra rằng khi bạn huấn luyện mọi người phân biệt các rung động xảy ra rất nhanh trên da, chỉ kéo dài 75 mili giây, những người này cũng có thể phát hiện ra âm thanh kéo dài 75 mili giây. Dường như Fast ForWord đang cải thiện khả năng chung của bộ não để nhận biết thời gian. Đôi khi những tiến bộ này cũng xảy đến với việc xử lý hình ảnh/thị giác. Trước Fast ForWord, khi Willy được cho làm một trò chơi hỏi những vật phẩm nào đặt không đúng chỗ – một chiếc ủng trên cây, hoặc một hộp thiếc trên mái nhà – đôi mắt cậu ta nhảy khắp trang. Cậu ấy đã cố gắng để nhìn toàn bộ trang thay vì nhìn một phần nhỏ tại một thời điểm. Ở trường, cậu bỏ qua những dòng chữ khi đọc. Sau Fast ForWord, đôi mắt cậu không còn nhảy khắp trang, và cậu có thể tập trung sự chú ý thị giác của mình.

Một số trẻ tham gia các bài kiểm tra tiêu chuẩn ngay sau khi hoàn thành chương trình Fast ForWord cho thấy những tiến bộ không chỉ về ngôn ngữ, nói và đọc, mà cả về toán học, khoa học và nghiên cứu xã hội. Có lẽ những đứa trẻ này đã nghe bài giảng ở lớp tốt hơn hoặc có thể đọc tốt hơn – nhưng Merzenich nghĩ rằng điều đó có thể phức tạp hơn thế.

“Bạn biết đấy,” ông nói, “IQ tăng lên. Chúng tôi đã sử dụng bài kiểm tra ma trận, đó là phép đo IQ dựa trên hình ảnh – và IQ tăng lên.”

Việc một thành phần trực quan của IQ tăng lên có nghĩa là những cải thiện về IQ không đơn giản vì Fast ForWord đã cải thiện khả năng đọc các câu hỏi kiểm tra của trẻ em. Hoạt động trí tuệ của chúng nhìn chung được cải thiện, có lẽ vì khả năng xử lý về thời gian của chúng đã tiến bộ. Và có những lợi ích bất ngờ khác. Một số trẻ tự kỷ bắt đầu có một số tiến bộ chung.

Bí ẩn của bệnh tự kỷ – bộ óc của một người không thể hình dung được những bộ óc khác – là một trong những điều phức tạp và sâu sắc nhất trong tâm thần học và là một trong những rối loạn phát triển nghiêm trọng nhất của thời thơ ấu. Nó được gọi là “rối loạn phát triển lan tỏa”, bởi vì rất nhiều khía cạnh của sự phát triển bị xáo trộn: trí thông minh, nhận thức, các kỹ năng xã hội, ngôn ngữ và cảm xúc.

Đa số trẻ tự kỷ có chỉ số IQ dưới 70. Chúng gặp khó khăn lớn khi kết nối xã hội với người khác và trong các trường hợp nghiêm trọng, chúng có thể đối xử với mọi người như những vật vô tri vô giác, không chào đón họ cũng như không thừa nhận họ là con người. Đôi khi dường như trẻ tự kỷ không có cảm giác rằng “những tâm trí khác” đang tồn tại trên thế giới. Chúng cũng có những khó khăn trong quá trình nhận thức và do đó thường quá nhạy cảm với âm thanh và xúc giác, dễ bị quá tải bởi sự kích thích. (Đó có thể là một lý do khiến trẻ tự kỷ thường tránh giao tiếp bằng mắt: sự kích thích từ mọi người, đặc biệt là khi đến từ nhiều giác quan khác cùng một lúc, quá mãnh liệt.) Mạng lưới thần kinh của chúng dường như hoạt động quá mức, và nhiều trẻ trong số này bị động kinh.

Bởi vì rất nhiều trẻ tự kỷ bị khiếm khuyết ngôn ngữ nên các bác sĩ lâm sàng bắt đầu đề xuất chương trình Fast ForWord dành cho chúng. Họ không dự đoán được điều gì có thể xảy ra. Cha mẹ của những trẻ tự kỷ đã tham gia Fast ForWord nói với Merzenich rằng con cái họ trở nên kết nối hơn về mặt xã hội. Ông bắt đầu hỏi, có phải những đứa trẻ chỉ đơn giản là được đào tạo để trở thành người biết chú tâm lắng nghe không? Và ông ta hứng thú trước thực tế là với Fast ForWord các triệu chứng ngôn ngữ và các triệu chứng tự kỷ dường như đang dần biến mất. Điều này có nghĩa là các vấn đề về ngôn ngữ và tự kỷ là những biểu hiện khác nhau của một vấn đề chung?

Hai nghiên cứu về trẻ tự kỷ đã xác nhận những gì Merzenich đã được nghe. Một, một nghiên cứu về ngôn ngữ cho thấy Fast ForWord đã nhanh chóng đưa trẻ tự kỷ từ khiếm khuyết ngôn ngữ nghiêm trọng sang dạng bình thường. Nhưng một nghiên cứu thí điểm khác về một trăm trẻ tự kỷ cho thấy Fast ForWord cũng có tác động đáng kể đến các triệu chứng tự kỷ của chúng. Khoảng chú ý của trẻ được cải thiện. Khiếu hài hước của chúng tăng lên. Chúng kết nối với mọi người nhiều hơn. Chúng đã phát triển khả năng giao tiếp bằng mắt tốt hơn, bắt đầu chào hỏi mọi người và gọi họ bằng tên, nói chuyện với họ và nói lời tạm biệt khi kết thúc cuộc gặp gỡ của họ. Dường như những đứa trẻ bắt đầu trải nghiệm thế giới chứa đựng những con người có tâm trí khác.

Lauralee, một cô bé tự kỷ tám tuổi, được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ dạng nhẹ khi cô bé lên ba tuổi. Dù đã tám tuổi, nhưng cô bé hiếm khi sử dụng ngôn ngữ. Cô bé không đáp lại khi người khác gọi tên cô, và tên cha mẹ cô, dường như cô bé không nghe thấy.

Đôi lúc cô bé sẽ nói, nhưng khi cô ấy nói, “cô bé có thứ ngôn ngữ riêng của mình”, mẹ cô cho hay, “thường khó hiểu,” Nếu cô bé muốn uống nước ép trái cây, cô bé không yêu cầu nó. Cô sẽ làm những cử chỉ và kéo bố mẹ đến tủ lạnh để lấy nước cho cô.

Cô bé có các triệu chứng tự kỷ khác, trong số đó có các động tác lặp đi lặp lại mà trẻ tự kỷ làm để cố gắng kiềm chế cảm giác bị choáng ngợp. Theo mẹ cô, Lauralee có “tất cả các triệu chứng như – vỗ tay, đi nhón chân, nhiều năng lượng, cắn. Và con bé không thể nói cho tôi biết cảm giác của nó.”

Cô bé rất gắn bó với cây. Khi bố mẹ cô đưa cô đi dạo vào buổi tối để tiêu bớt năng lượng, cô bé thường dừng lại, chạm vào một cái cây, ôm nó và nói chuyện với nó.

Lauralee rất nhạy cảm với âm thanh. “Nó có đôi tai sinh học,” mẹ cô nói. “Khi con bé còn nhỏ, nó thường bịt tai lại. Nó không chịu được một vài loại nhạc trên đìa phát thanh, như nhạc cổ điển hay nhạc chậm.” Ở phòng khám nhi khoa, nó nghe được những âm thanh ở trên lầu mà người khác không nghe thấy. Ở nhà, nó thích đến chỗ bồn rửa mặt, mở nước cho chảy đầy bồn rồi sau đó xả nước, ôm lấy cái ống dẫn nước và nghe tiếng nước chảy qua ống.

Cha của Lauralee ở trong hải quân và phục vụ cuộc chiến ở Iraq năm 2003. Khi gia đình chuyển đến California, Lauralee đã được ghi danh vào một trường công lập với một lớp học đặc biệt sử dụng chương trình Fast For-Word. Cô bé mất khoảng hai giờ mỗi ngày trong 8 tuần để hoàn thành chương trình.

Khi cô bé hoàn thành xong chương trình, “cô bé đã có sự bùng nổ trong ngôn ngữ”, mẹ cô cho biết, “bắt đầu nói nhiều hơn và nói các câu hoàn chỉnh. Con bé có thể kể cho tôi biết một ngày học ở trường của nó. Trước đây tôi chỉ hỏi ‘Ngày hôm nay của con là một ngày tốt đẹp hay tồi tệ?’ Bây giờ thì con bé có thể kể cho tôi biết những việc nó đã làm, và nó nhớ được các chi tiết. Nếu con bé gặp phải chuyện tệ hại, nó có thể kể cho tôi và tôi không cần phải gợi ý để con bé kể ra được. Con bé cũng dễ ghi nhớ mọi thứ hơn.” Lauralee luôn thích đọc sách, giờ con bé đang đọc những cuốn sách dài hơn, phi hư cấu và bách khoa toàn thư. Con bé đang nghe những âm thanh nhỏ hơn và có thể chịu đựng được những âm thanh khác nhau từ đài phát thanh”, mẹ cô nói. Đây là một sự thức tỉnh đối với con bé. Và với sự giao tiếp tốt hơn, và tất cả chúng tôi đã có sự thức tỉnh. Nó là một phước lành lớn lao.”

Merzenich quyết định rằng để hiểu sâu hơn về chứng tự kỷ và những sự chậm phát triển của nó, ông cần phải quay lại phòng thí nghiệm. Ông nghĩ cách hay nhất để hiểu về bệnh tự kỷ là trước tiên cần tạo ra một “động vật bị tự kỷ” — một con vật cũng có nhiều sự chậm phát triển như đứa trẻ mắc tự kỷ. Khi ấy ông mới có thể nghiên cứu về nó và tìm cách chữa trị.

Khi Merzenich bắt đầu suy nghĩ về điều mà ông gọi là “thảm họa sơ sinh” của bệnh tự kỷ, ông linh cảm rằng có điều gì đó sai sai có thể đã xảy ra trong tuổi sơ sinh, khi đây là giai đoạn quan trọng nhất, độ dẻo dai của não bộ ở mức cao nhất, và sự phát triển ở mức độ lớn cần phải xảy ra. Nhưng bệnh tự kỷ phần lớn là tình trạng do di truyền. Nếu một người sinh đôi bị tự kỷ thì 80 đến 90 phần trăm khả năng người sinh đôi còn lại cũng sẽ bị tự kỷ. Trong các trường hợp sinh đôi khác trứng, trong đó một người mắc tự kỷ, người sinh đôi không mắc tự kỷ kia thường sẽ gặp một số vấn đề về ngôn ngữ và xã hội.

Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ đã tăng lên với tốc độ đáng kinh ngạc mà không thể giải thích được bằng một mình  sự di truyền. Khi bệnh tự kỷ lần đầu tiên được xông nhận cách đây hơn bốn mươi năm, khoảng một trong 5.000 người mắc bệnh, bây giờ là 15 trong 5.000. Con số đó đã tăng lên một phần vì bệnh tự kỷ được chẩn đoán thường xuyên hơn và bởi vì một số trẻ em được dán nhãn là tự kỷ nhẹ để nhận được tiền tài trợ cho điều trị. “Nhưng” theo Merzenich, “ngay cả khi tất cả những số liệu được thay đổi bới các nhà dịch tễ học khó tính, có vẻ như nó tăng gấp ba lần trong mười lăm năm qua. Có một tình trạng khẩn cấp trên thế giới liên quan đến các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tự kỷ.”

Ông đã nghĩ rằng có khả năng một yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các mạch thần kinh ở những đứa trẻ này, buộc các giai đoạn quan trọng phải chấm dứt sớm, trước khi các bản đồ não được phân hóa hoàn toàn. Khi chúng ta được sinh ra, bản đồ não bộ của chúng ta thường là “những bản phác thảo thô” hoặc phác họa, thiếu chi tiết, hoàn toàn giống nhau. Trong giai đoạn quan trọng, khi cấu trúc bản đồ não của chúng ta được định hình theo nghĩa đen bởi những trải nghiệm đầu tiên của chúng ta về thế giới, bản phác thảo thô thường trở nên chi tiết và khác biệt, Merzenich và nhóm của ông sử dụng vi bản đồ để chỉ ra bản đồ não của chuột sơ sinh được hình thành trong giai đoạn quan trọng như thế nào. Ngay sau khi sinh, vào đầu giai đoạn quan trọng, bản đồ thính giác hoàn toàn giống nhau, cùng một kiểu, chỉ có hai vùng rộng ở vỏ não. Một nửa bản đồ phản ứng với âm thanh tần số cao. Nửa còn lại phản ứng với âm thanh tần số thấp.

Khi con vật được tiếp xúc với một tần số cụ thể trong giai đoạn quan trọng, bản đồ đơn giản đó đã thay đổi. Nếu con vật liên tục tiếp xúc với nốt C cao, sau một thời gian chỉ có một vài tế bào thần kinh bật sáng,  giờ trở thành chọn lọc cho nốt C cao. Điều tương tự sẽ xảy ra khi con vật tiếp xúc với D, E, F, v.v.

Bây giờ bản đồ, thay vì chỉ có hai khu vực rộng lớn, đã có nhiều khu vực khác nhau, mỗi khu vực đáp ứng với các nốt âm thanh khác nhau. Bây giờ nó đã được phân biệt.

Điều đáng chú ý về vỏ não trong giai đoạn quan trọng là nó dẻo đến mức có thể thay đổi cấu trúc của nó bằng cách cho nó tiếp xúc với kích thích mới. Sự nhạy cảm đó cho phép trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ trong giai đoạn phát triển ngôn ngữ quan trọng có thể tiếp thu những âm thanh và từ ngữ mới một cách dễ dàng, chỉ đơn giản bằng cách nghe cha mẹ nói; sự tiếp xúc đơn thuần làm cho bản đồ não của chúng thay đổi. Sau giai đoạn quan trọng, trẻ lớn hơn và người trưởng thành dĩ nhiên có thể học ngôn ngữ, nhưng họ thực sự phải nỗ lực để tập trung chú ý. Theo Merzenich, sự khác biệt giữa tính dẻo dai của giai đoạn-quan trọng và tính dẻo dai ở người trưởng thành là trong giai đoạn quan trọng, bản đồ não bộ có thể thay đổi chỉ đơn giản bằng cách tiếp xúc với thế giới vì “cỗ máy học hỏi liên tục hoạt động.”

Nguyên nhân sinh học của “cỗ máy” liên tục hoạt động này là vì trẻ sơ sinh không thể biết điều gì là quan trọng trong cuộc sống, vì vậy chúng chú ý đến tất cả mọi thứ. Chỉ có một bộ não đã được tổ chức mới có thể phân loại được thứ gì là đáng chú ý.

Manh mối tiếp theo Merzenich cần để hiểu về bệnh tự kỷ xuất phát từ một dòng nghiên cứu bắt nguồn từ Thế chiến thứ hai, ở Phát xít Ý, bởi một phụ nữ trẻ người Do Thái, Rita Levi-Montalcini, trong khi đang ẩn náu.

Levi-Montalcini sinh năm 1909 ở Turin và theo học trường y ở đó. Năm 1938, khi Mussolini cấm người Do Thái hành nghề y và làm nghiên cứu khoa học, cô trốn sang Brussels để tiếp tục các nghiên cứu của cô; khi phát xít Đức đe dọa Bỉ, cô quay trở lại Torino và xây dựng một phòng thí nghiệm bí mật trong phòng ngủ của mình, để nghiên cứu cách thức các dây thần kinh hình thành, rèn các thiết bị vi phẫu thuật từ cây kim khâu. Khi quân Đồng minh ném bom thành phố Torino năm 1940, cô chạy trốn đến Piedmont. Một ngày nọ vào năm 1940, cô đi đến một ngôi làng nhỏ ở miền bắc nước Ý trên một chiếc xe chở gia súc được chuyển thành tàu chở khách, cô ngồi xuống sàn và đọc một bài báo khoa học của Viktor Hamburger, người đang tiên phong nghiên cứu sự phát triển tế bào thần kinh bằng cách nghiên cứu phôi gà. Cô quyết định lặp lại và mở rộng thí nghiệm của ông ấy, làm việc trên một cái bàn ở một ngôi nhà trên núi với những quả trứng của một nông dân địa phương. Khi cô hoàn thành mỗi thí nghiệm, cô ăn trứng. Sau chiến tranh, Hamburger đã mời Levi-Montalcini tham gia cùng với ông và các nhà nghiên cứu của ông ta ở St. Louis để khám phá ra rằng các sợi thần kinh của gà con phát triển nhanh hơn khi có khối u từ chuột. Levi-Montalcini suy đoán rằng khối u có thể đang tiết ra một chất để thúc đẩy sự phát triển thần kinh. Với nhà hóa sinh Stanley Cohen, bà đã phân tách được protein chịu trách nhiệm và gọi đó là yếu tố tăng trưởng thần kinh, hay NGF. Levi-Montalcini và Cohen đã được trao giải thưởng Nobel vào năm 1986.

Công trình nghiên cứu của Levi-Montalcini đã dẫn đến việc phát hiện ra một số yếu tố tăng trưởng thần kinh, một trong số đó, yếu tố hướng thần kinh có nguồn gốc từ não, hay BDNF, đã thu hút sự chú ý của Merzenich.

BDNF đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố những thay đổi tính dẻo gây ra trong não trong giai đoạn quan trọng. Theo Merzenich, nó thực hiện điều này theo bốn cách khác nhau.

Khi chúng ta thực hiện một hoạt động đòi hỏi các nơ-ron cụ thể bắn điện cùng nhau, chúng sẽ giải phóng BDNF. Yếu tố tăng trưởng này củng cố các kết nối giữa các tế bào thần kinh đó và giúp kết nối chúng lại với nhau để chúng tin cậy bắn điện cùng nhau trong tương lai. BDNF cũng thúc đẩy sự phát triển của lớp mỡ mỏng xung quanh mỗi tế bào thần kinh, nhờ đó tăng tốc độ truyền tín hiệu điện. Trong giai đoạn quan trọng, BDNF bật hạt nhân basalis, phần não cho phép ta tập trung sự chú ý – và giữ nó trong suốt giai đoạn quan trọng. Sau khi bật, hạt nhân basalis không chỉ giúp chúng ta tập trung chú ý mà còn nhớ lại được những gì chúng ta đang trải qua. Nó cho phép sự phân hóa và thay đổi bản đồ não diễn ra một cách dễ dàng. Merzenich nói với tôi, “Nó giống như một giáo viên trong bộ não đang nói rằng, ‘Bây giờ điều này thực sự quan trọng – đây là thứ bạn phải biết cho kỳ thi của cuộc sống.’ Merzenich gọi hạt nhân basalis và hệ thống chú ý là “hệ thống kiểm soát độ dẻo” – hệ thống hóa học thần kinh, khi được bật lên, đưa não vào trạng thái cực kỳ dẻo dai. Cách thứ tư và cuối cùng mà BDNF thực hiện – khi nó đã hoàn thành việc tăng cường các kết nối chính – là để giúp chấm dứt giai đoạn quan trọng. Một khi các kết nối nơ-ron chính được đặt xuống, cần có sự ổn định và do đó ít tính dẻo hơn trong hệ thống. Khi BDNF được phóng thích đủ số lượng, nó sẽ tắt hạt nhân basalis và kết thúc kỷ nguyên kỳ diệu của việc học tập không biết mệt mỏi. Do đó, hạt nhân chỉ có thể được kích hoạt khi có điều gì đó quan trọng, đáng ngạc nhiên hoặc sự mới lạ xảy ra hoặc nếu chúng ta nỗ lựctập trung chú ý.

Nghiên cứu của Merzenich về giai đoạn quan trọng và BDNF giúp ông phát triển một lý thuyết nhằm giải thích rất nhiều vấn đề khác nhau có thể chỉ là một phần của bệnh tự kỷ. Ông cho rằng trong suốt giai đoạn quan trọng, một số tình huống kích thích quá mức các tế bào thần kinh ở đứa trẻ có gen khiến chúng dễ mắc tự kỷ, dẫn đến việc phóng thích BDNF sớm và quá nhiều. Thay vì củng cố các kết nối quan trọng thì nó lại củng cố tất cả các kết nối. Quá nhiều BDNF được phóng thích khiến nó chấm dứt giai đoạn quan trọng quá sớm, niêm phong tất cả các kết nối này, và để lại cho đứa trẻ những bản đồ não chưa được phân hóa và do đó dẫn đến chứng rối loạn phát triển lan tỏa (tự kỷ). Bộ não của chúng là quá dễ kích thích và quá nhạy cảm. Nếu chúng nghe thấy một tần số âm thanh thì toàn bộ vỏ não thính giác của chúng bắt đầu bắn điện. Đây có vẻ là những gì đang diễn ra ở Lauralee, cô bé đã phải bịt lỗ tai lại khi nghe nhạc. Những trẻ tự kỷ khác thì quá nhạy cảm khi đụng chạm và cảm thấy như bị tra tấn khi cái nhãn gắn trên quần áo chạm vào da chúng. Lý thuyết của Merzenich cũng giải thích về tỷ lệ mắc động kinh cao ở trẻ tự kỷ: vì sự phóng thích BDNF, những bản đồ não phân hóa kém, và vì quá nhiều kết nối trong bộ não được củng cố một cách bừa bãi, khi một vài tế bào thần kinh bắt đầu bắn điện thì toàn bộ não bộ có thể bị kích thích. Nó cũng lý giải tại sao trẻ tự kỷ có bộ não lớn hơn— chất làm tăng lớp mỡ bao quanh các tế bào thần kinh.

Nếu việc phóng thích BDNF là yếu tố góp phần gây ra tự kỷ và các vấn đề về ngôn ngữ, Merzenich cần hiểu được điều gì có thể khiến những tế bào thần kinh non trẻ “bị kích thích quá mức” và phóng thích quá nhiều hóa chất.

Một số nghiên cứu đã cảnh báo ông về yếu tố môi trường có thể là một trong các nguyên nhân gây ra tự kỷ. Một nghiên cứu đáng lo ngại cho thấy những đứa trẻ càng sống gần sân bay ồn ào ở Frankfurt, Đức thì trí thông minh của chúng càng thấp. Một nghiên cứu tương tự trên trẻ em sống ở chung cư cao tầng tại đường cao tốc Dan Ryan ở Chicago, thấy rằng tầng của chúng càng gần đường cao tốc, trí thông minh của chúng càng thấp. Vì vậy, Merzenich bắt đầu băn khoăn về vai trò của một yếu tố-nguy cơ-môi trường có thể ảnh hưởng đến tất cả mọi người nhưng lại có tác động nghiêm trọng hơn đối với trẻ em có có yếu tố di truyền khiến dễ bị mắc bệnh tự kỷ; tiếng ồn liên tục xung quanh từ máy móc, đôi khi được gọi là tiếng ồn trắng. Tiếng ồn trắng bao gồm nhiều tần số và rất Kích thích đối với vỏ não thính giác.

“Trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng trong môi trường ồn ào, ầm ĩ liên tục,” ông nói. Bây giờ Tiếng ồn trắng có ở khắp mọi nơi, nó đến từ các quạt trong thiết bị điện tử, điều hòa không khí, máy sưởi và động cơ xe hơi của chúng tôi. Merzenich tự hỏi loại tiếng ồn này ảnh hưởng như thế nào đến bộ não đang phát triển? Để kiểm tra giả thuyết này, nhóm của ông đã cho những con chuột con tiếp xúc với tiếng ồn trắng trong suốt giai đoạn quan trọng của chúng và phát hiện thấy vỏ não của chuột con bị hủy hoại.

“Mỗi lần bạn nghe một tần số âm thanh,” Merzenich nói, “bạn đang kích thích mọi thứ trong vỏ não thính giác— mọi tế bào thần kinh.” Quá nhiều nơ ron bắn điện, làm phóng thích nhiều BDNF. Và đúng như dự đoán của mô hình của ông, sự tiếp xúc này làm cho giai đoạn quan trọng bị kết thúc quá sớm, để lại cho con vật bản đồ bộ não không phân hóa và những tế bào thần kinh bật lên bừa bãi trước bất kỳ tần số âm thanh nào.

Merzenich phát hiện ra rằng những con chuột con này, giống như trẻ tự kỷ, dễ mắc bệnh động kinh, và tiếp xúc với lời nói bình thường cũng làm chúng lên cơn động kinh. (Những người bị động kinh phát hiện thấy ánh sáng nhấp nháy ở những buổi trình diễn nhạc rock gây ra cơn động kinh của họ. Đèn chớp là những xung phát ánh sáng trắng và bao gồm nhiều tần số.) Hiện tại Merzenich đã có mô hình động vật để nghiên cứu bệnh tự kỷ. Những nghiên cứu quét não hiện tại đã xác nhận rằng trẻ tự kỷ xử lý âm thanh theo cách bất thường. Merzenich cho rằng võ não chưa phân hóa giúp lý giải tại sao chúng gặp khó khăn trong học tập, vì một đứa trẻ với vỏ não chưa phân hóa sẽ thấy khó tập trung chú ý. Khi được yêu cầu tập trung vào một thứ, những đứa trẻ này trải qua sự bùng nổ, ầm ĩ— một lý do tại sao trẻ tự kỷ thường thu mình khỏi thế giới và phát triển một vỏ bọc. Merzenich nghĩ rằng vấn đề tương tự, ở dạng nhẹ hơn, có thể góp phần vào các rối loạn chú ý phổ biến hơn.

Bây giờ câu hỏi đặt ra cho Merzenich là, chúng ta có thể làm gì để bình thường hóa bản đồ não chưa phân hóa sau giai đoạn quan trọng? Nếu ông ấy và nhóm của ông có thể làm được thì họ có thể mang lại hy vọng cho trẻ tự kỷ. 

Sử dụng tiếng ồn trắng, trước tiên họ xóa bỏ sự phân hóa bản đồ thính giác của chuột. Sau khi gây ra tổn thương cho bản đồ não, rồi họ lại làm nó bình thường và phân hóa trở lại bằng cách dùng những nốt âm rất đơn giản, một lúc một nốt. Với sự huấn luyện, trên thực tế họ đã làm cho bản đồ não đạt trên mức-bình thường. “Và đó chính xác là những gì chúng tôi đang cố gắng thực hiện ở những đứa trẻ bị tự kỷ”, Merzenich cho biết. Ông hiện đang phát triển một chương trình ForWord được sử đổi dành cho trẻ tự kỷ, một bản cải tiến của chương trình đã từng hỗ trợ cho Lauralee.

Điều gì sẽ xảy ra nếu có thể mở lại tính dẻo trong giai đoạn quan trọng, để những người trưởng thành cho thể tiếp thu ngôn ngữ giống như cách của trẻ em, là chỉ cần tiếp xúc với chúng? Merzenich từng chứng minh rằng tính dẻo kéo dài tới tuổi trưởng thành, và với hoạt động – bằng cách tập trung chú ý kỹ – chúng ta có thể điều chỉnh bộ não của mình. Nhưng bây giờ ông ấy được hỏi là, liệu khoảng thời gian quan trọng của sự học tập dễ dàng có thể kéo dài được không?

Việc học tập trong giai đoạn quan trọng luôn dễ dàng vì trong suốt giai đoạn đó, hạt nhân basalis luôn được bật. Vì vậy, Merzenich và đồng nghiệp trẻ Michael Kilgard đã thiết lập một thí nghiệm trong đó họ dùng cách nhân tạo để bật hạt nhân basalis ở chuột trưởng thành và giao cho chúng những nhiệm vụ học tập mà chúng không cần phải chú ý mới học được và sẽ không nhận được phần thưởng cho việc học. Họ chèn các vi điện cực vào các hạt nhân basalis và sử dụng một dòng điện để giữ cho nó được bật. Sau đó, họ cho những con chuột tiếp xúc với tần số âm thanh 9 Hz để xem liệu chúng có thể dễ dàng phát triển một vị trí bản đồ não cho nó hay không, như cách mà những con chuột con làm trong giai đoạn quan trọng. Sau một tuần, Kilgard và Merzenich nhận thấy họ có thể mở rộng bản đồ não cho tần số âm thanh đó. Họ đã tìm ra một cách nhân tạo để mở lại giai đoạn quan trọng ở người trưởng thành. 

Sau đó, họ đã sử dụng kỹ thuật tương tự để khiến bộ não tăng tốc thời gian xử lý. Thông thường tế bào thần kinh thính giác của một con chuột trưởng thành chỉ có thể đáp ứng với âm ở mức tối đa 12 xung mỗi giây. Bằng cách kích thích các hạt nhân basalis, có thể “giáo dục” các tế bào thần kinh để đáp ứng với các đầu vào nhanh hơn bao giờ hết.

Công việc này mở ra triển vọng học tập-tốc độ cao sau này. Các hạt nhân basalis có thể được bật bằng một điện cực, bằng cách tiêm một số hóa chất, hoặc bằng thuốc. Thật khó để tưởng tượng rằng mọi người sẽ không bị lôi cuốn vào một công nghệ khiến cho việc tinh thông các kiến thức về khoa học, lịch sử hoặc một nghề nghiệp một cách dễ dàng chỉ bằng cách tiếp xúc với chúng trong thời gian ngắn.

Hãy tưởng tượng những người nhập cư đến một quốc gia mới, bây giờ có thể chọn ngôn ngữ mới của họ, một cách dễ dàng và không có khẩu âm, trong vài tháng. Hãy tưởng tượng cuộc sống của những người lớn tuổi bị sa thải khỏi công việc có thể được thay đổi như thế nào, nếu họ có thể học được một kỹ năng mới với sự hoạt bát, nhanh nhẹn mà họ từng có trong thời thơ ấu. Những kỹ thuật như vậy chắc chắn sẽ được sử dụng bởi các học sinh trung học và đại học trong các nghiên cứu của họ và trong các kỳ thi tuyển sinh. (Có nhiều học sinh không bị chứng rối loạn thiếu tập trung đã sử dụng chất kích thích để học.) Tất nhiên, những can thiệp mạnh mẽ như vậy có thể không lường trước được, để lại những ảnh hưởng xấu đến não bộ — chưa nói đến khả năng tự kỷ luật bản thân của chúng ta— nhưng chúng có thể sẽ được tiên phong thực hiện trong những trường hợp cần can thiệp y khoa, khi người ta sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Bật các hạt nhân basalis có thể giúp cho những bệnh nhân bị chấn thương não, vì vậy mà nhiều người trong số họ không thể học lại những chức năng đã đánh mất như đọc, nói, viết hoặc đi bộ vì họ không thể có sự chú ý đúng mức.

Merzenich đã thành lập một công ty mới, tên là Posit Science, nhằm giúp mọi người bảo tồn tính dẻo của bộ não khi họ già đi và kéo dài tuổi thọ tinh thần. Ông đã sáu mươi mốt tuổi nhưng không ngần ngại gọi mình là người già. “Tôi yêu người già. Tôi luôn yêu người già. Có lẽ người tôi yêu thích là ông nội tôi, một trong ba hoặc bốn người thông minh và thú vị nhất tôi từng gặp trong đời.” Ông nội của Merzenich đến Đức năm lên chín tuổi trên một trong những con thuyền cuối cùng. Ông tự học, là một kiến ​​trúc sư và một nhà thầu xây dựng. Ông sống đến bảy mươi chín tuổi, vào thời điểm tuổi thọ trung bình của mọi người là gần bốn mươi.

“Ước tính đến lúc một người 65 tuổi chết, tuổi thọ trung bình sẽ là cuối tám mươi. Chà, khi bạn tám mươi lăm tuổi, có 47% khả năng bạn sẽ mắc bệnh Alzheimer.” Ông cười. “Chúng ta phải làm gì đó với tuổi thọ trí óc, để kéo dài nó ra và chuyển vào tuổi thọ của cơ thể.”

Merzenich nghĩ rằng việc chúng ta bỏ bê việc học tập chuyên sâu khi chúng ta già đi dẫn đến các hệ thống trong não điều chỉnh, sắp xếp và kiểm soát tính dẻo bị phí hoài. Để đáp lại, ông đã phát triển các bài tập não cho sự suy giảm nhận thức liên quan đến tuổi – sự suy giảm phổ biến về trí nhớ, tư duy và tốc độ xử lý.

Cách chống lại chứng suy giảm trí tuệ của Merzenich mâu thuẫn với khoa học thần kinh chính thống. Hàng chục ngàn bài báo viết về những thay đổi vật lý và hóa học xảy ra trong bộ não lão hóa, mô tả các quá trình xảy ra khi tế bào thần kinh chết đi. Có rất nhiều loại thuốc trên thị trường để ngăn chặn các quá trình này và tăng mức độ hóa chất bị sụt giảm trong não. Tuy nhiên, Merzenich cho rằng những loại thuốc trị giá hàng tỷ đồng này chỉ đem lại sự tiến bộ trong khoảng bốn đến sáu tháng.

“Và có một điều gì đó thực sự không đúng,” ông nói. “Tất cả đều bỏ qua vai trò của những gì cần thiết để duy trì các kỹ năng và khả năng bình thường … Cứ như thể các kỹ năng và khả năng của bạn có được trong não bộ khi còn trẻ, chỉ bị hủy hoại khi bộ não vật lý trở nên suy yếu.” Ông cho rằng cách tiếp cận chính thống không dựa trên sự hiểu biết đích thực về những gì cần thiết để phát triển một kỹ năng mới trong não bộ, chưa nói đến việc duy trì nó. “Hãy tưởng tượng” ông nói “rằng nếu bạn kiểm soát được nồng độ chất dẫn truyền thần kinh thích hợp… trí nhớ sẽ được khôi phục và nhận thức sẽ hữu dụng, và bạn sẽ lại bắt đầu di chuyển như một con linh dương.”

Cách tiếp cận chủ đạo không tính đến những gì cần thiết để duy trì trí nhớ sắc bén. Một lý do chính khiến mất trí nhớ xảy ra khi chúng ta già là ta gặp khó khăn khi ghi những sự kiện mới vào hệ thần kinh của mình, vì tốc độ xử lý chậm lại, do đó độ chính xác, sức mạnh và sự sắc sảo mà chúng ta ghi nhận về sự kiện sẽ giảm. Nếu bạn không thể ghi một thứ gì đó vào tâm trí rõ ràng thì bạn sẽ không thể nhớ nó được tốt.

Hãy lấy ví dụ một trong những vấn đề phổ biến nhất của lão hóa, đó là khó tìm từ ngữ. Merzenich nghĩ rằng vấn đề này thường xảy ra vì hệ thống chú ý của bộ não và hạt nhân basalis dần dần bị sao lãng và teo đi. Mà hệ thống chú ý và hạt nhân basalis lại cần hoạt động để dẫn đến sự thay đổi tính dẻo. Sự thoái hóa này dẫn tới việc chúng ta hình dung lời nói bằng những “dấu vết ký ức mờ nhạt trong não bộ,” có nghĩa là sự hình dung các âm thanh hay từ ngữ không còn chính xác nữa vì các nơ-ron giải mã những dấu vết ký ức mờ nhạt trong não bộ này không được tổ chức một cách nhanh chóng cần thiết để gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ sắc nét. Vì các nơ-ron diễn giải lời nói đưa ra những tín hiệu mơ hồ tới tất cả các nơ-ron bên dưới nó (“đầu vào mù mờ, đầu ra cũng mù mờ”) chúng ta cũng gặp phải vấn đề trong việc ghi nhớ, tìm kiếm và sử dụng từ ngữ. Nó tương tự như vấn đề chúng ta thấy xảy ra trong não của những đứa trẻ bị khiếm khuyết ngôn ngữ, chúng cũng có “bộ não ồn ào.

Khi bộ não của chúng ta “ồn ào”, tín hiệu cho một ký ức mới không thể cạnh tranh lại với hoạt động điện nền của não, gây ra “vấn đề nhiễu oạn tín hiệu”.

Merzenich nói rằng hệ thống trở nên ồn ào hơn vì hai lý do. Đầu tiên bởi vì như mọi người đều biết, “mọi thứ đang dần dần chết đi”. Nhưng “lý do chính khiến nó trở nên ồn ào hơn là nó không được luyện tập một cách thích hợp.” Hạt nhân basalis, hoạt động bằng cách tiết ra acetylcholine – như chúng ta đã nói, giúp bộ não “điều chỉnh” và hình thành những ký ức sắc nét – đã bị bỏ bê hoàn toàn. Ở một người bị suy giảm nhận thức nhẹ, acetylcholine được sản xuất trong hạt nhân basalis thậm chí không thể đo được.

“Chúng ta từng có khoảng thời gian học tập căng thẳng thời thơ ấu. Mỗi ngày ta đều học được những điều mới mẻ. Và sau đó, trong giai đoạn đầu làm việc, chúng ta tăng cường học hỏi và tiếp thu các kỹ năng và khả năng mới. Và khi chúng ta ngày càng tiến bộ trong cuộc sống, chúng ta giống như những người sử dụng thông thạo các kỹ năng và khả năng.”

Về mặt tâm lý, tuổi trung niên thường là một khoảng thời gian thú vị bởi vì, tất cả mọi thức đều như nhau, nó có thể là một giai đoạn tương đối điềm tĩnh so với những gì đã xảy đến trước đây. Cơ thể chúng ta không thay đổi như khi còn ở tuổi thiếu niên; chúng ta có cảm nhận vững chắc hơn về bản thân mình và có kỹ năng trong một công việc. Chúng ta vẫn xem bản thân mình là người năng động, nhưng chúng ta có xu hướng tự lừa mình khi nghĩ rằng chúng ta vẫn đang học tập như trước đây. Chúng ta hiếm khi tham gia vào các nhiệm vụ mà chúng ta phải tăng cường tập trung chú ý giống như hồi còn trẻ, cố gắng học một từ vựng mới hoặc làm chủ các kỹ năng mới. Những hoạt động như đọc báo, thực hành một nghề trong nhiều năm và nói ngôn ngữ của mình chủ yếu là lặp lại những kỹ năng mà ta đã thông thạo, đó không phải là học tập. Khi ta chạm đến tuổi bảy mươi, chúng ta có thể không tham gia vào các hệ thống não bộ điều chỉnh tính dẻo dai trong năm mươi năm.

Đó là lý do tại sao việc học một ngôn ngữ mới ở tuổi già rất tốt để cải thiện và duy trì trí nhớ nói chung. Bởi vì nó đòi hỏi sự tập trung cao độ, việc nghiên cứu một ngôn ngữ mới sẽ bật hệ thống điều khiển về tính dẻo và giữ cho nó ở trạng thái tốt để ghi lại mọi ký ức sắc nét. Không còn nghi ngờ gì nữa, Fast ForWord chịu trách nhiệm cho rất nhiều cải tiến chung về tư duy, một phần vì nó kích thích hệ thống kiểm soát tính dẻo để theo kịp việc sản xuất acetylcholine và dopamine. Bất cứ điều gì đòi hỏi sự chú ý tập trung cao độ sẽ giúp hệ thống đó— học các hoạt động thể chất mới đòi hỏi sự tập trung, giải các câu đố thách thức hoặc thay đổi công việc đòi hỏi bạn phải thành thạo các kỹ năng và tài liệu mới. Bản thân Merzenich là người ủng hộ việc học một ngôn ngữ mới khi về già. “Bạn sẽ dần dần mài giũa lại mọi thứ và điều đó sẽ rất có lợi cho bạn.”

Điều tương tự cũng áp dụng cho sự vận động. Chỉ thực hiện các điệu nhảy mà bạn đã học cách đây nhiều năm sẽ không giúp vỏ não vận động của bạn được khỏe mạnh. Để giữ cho tâm trí sống động, đòi hỏi bạn phải học một cái gì đó thực sự mới mẻ với sự tập trung cao độ. Đó là thứ sẽ cho phép bạn vừa ghi những ký ức mới vào tâm trí và có một hệ thống có thể dễ dàng truy cập và lưu giữ những cái cũ.

Ba mươi sáu nhà khoa học tại công ty Posit Science đang làm việc trên năm lĩnh vực có xu hướng thoái hóa khi chúng ta già đi. Chìa khóa trong việc phát triển các bài tập là cung cấp cho não bộ các kích thích phù hợp, theo đúng thứ tự, với thời gian thích hợp để thúc đẩy thay đổi tính dẻo. Một phần của thách thức khoa học là tìm ra cách hiệu quả nhất để rèn luyện não bộ, bằng cách tìm các chức năng trí tuệ để đào tạo áp dụng vào cuộc sống thực.

Merzenich nói với tôi, “Mọi thứ mà anh thấy xảy ra trong một bộ não người trẻ đều có thể xảy ra ở bộ não người già”. Yêu cầu duy nhất là người đó phải có đủ phần thưởng, hoặc hình phạt, để tiếp tục chú ý vào một thứ gì đó từ đầu đến cuối, có thể là một buổi đào tạo nhàm chán. Nếu vậy, ông nói, “những thay đổi có thể tuyệt vời như những thay đổi ở trẻ sơ sinh.”

Posit Science có các bài tập để ghi nhớ các từ vựng và ngôn ngữ, sử dụng các bài tập nghe và trò chơi trên máy tính giống như Fast ForWord cho bộ nhớ thính giác được thiết kế riêng cho người lớn. Thay vì đưa cho những người với trí nhớ đang sa sút danh sách các từ vựng cần ghi nhớ, như lời khuyên của nhiều sách self-help, những bài tập này xây dựng lại khả năng xử lý âm thanh cơ bản của não, bằng cách khiến mọi người nghe những âm thanh lời nói chậm, đã được điều chỉnh. Merzenich không tin rằng bạn có thể cải thiện một trí nhớ sa sút bằng cách yêu cầu người ta làm những việc họ không thể làm.

“Chúng ta không muốn làm đi làm lại một việc vô ích bằng cách huấn luyện,” ông nói. Những người trưởng thành làm các bài tập điều chỉnh lại khả năng nghe của họ theo cách mà họ chưa từng làm bao giờ kể từ khi họ còn đang nằm trong cũi, cố gắng tách giọng nói của Mẹ khỏi những tiếng ồn xung quanh. Các bài tập tăng tốc độ xử lý và làm cho các tín hiệu cơ bản mạnh hơn, sắc nét hơn và chính xác hơn, đồng thời kích thích bộ não sản xuất dopamine và acetylcholine.

Nhiều trường đại học hiện đang thử nghiệm các bài tập về trí nhớ, sử dụng các bài kiểm tra trí nhớ được chuẩn hóa và Posit Science đã công bố nghiên cứu kiểm soát đầu tiên trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa Kỳ. Những người lớn trong độ tuổi sáu mươi đến tám mươi bảy được đào tạo về chương trình trí nhớ thính giác một giờ mỗi ngày, năm ngày một tuần, trong tám đến mười tuần – tổng cộng bốn mươi đến năm mươi giờ tập luyện. Trước khi được huấn luyện, chức năng trí nhớ của các đối tượng về trung bình hoạt động như những người bảy mươi tuổi điển hình theo các bài kiểm tra trí nhớ tiêu chuẩn. Sau huấn luyện, họ hoạt động như những người ở độ tuổi 40 đến 60. Do đó, nhiều người đã quay ngược đồng hồ bộ nhớ của họ từ mười năm trở lên và một số cá nhân đã quay ngược lại khoảng hai mươi lăm năm. Những sự cải thiện này được theo dõi trong ba tháng. Một nhóm tại Đại học California tại Berkeley, do William Jagust dẫn đầu, đã thực hiện chụp cắt lớp PET “trước” và “sau khi” những người đã trải qua huấn luyện và phát hiện thấy bộ não của họ không có các dấu hiệu của “suy giảm trao đổi chất”- các tế bào thần kinh dần trở nên kém hoạt động- thường gặp ở những người ở độ tuổi của họ. Nghiên cứu cũng so sánh các đối tượng bảy mươi mốt tuổi sử dụng chương trình bộ nhớ thính giác với những người cùng tuổi dành thời gian đọc báo, nghe audiobook hoặc chơi game trên máy tính. Những người không sử dụng chương trình bộ nhớ thính giác có dấu hiệu tiếp tục “suy giảm trao đổi chất” ở thùy trán của họ, trong khi những người sử dụng chương trình này thì không. Thay vào đó, những người sử dụng chương trình cho thấy hoạt động trao đổi chất tăng lên ở thùy phải của họ và ở một số vùng não khác, tương quan với thành tích của họ trong các bài kiểm tra trí nhớ và chú ý tốt hơn. Những nghiên cứu này cho thấy các bài tập não không chỉ làm chậm sự suy giảm nhận thức liên quan đến tuổi tác mà còn có thể cải thiện chức năng trí tuệ. Và hãy nhớ rằng những thay đổi này đã được nhìn thấy chỉ với bốn mươi đến năm mươi giờ tập thể dục não; có thể khi tập luyện nhiều hơn thì có thể đem lại sự thay đổi to lớn hơn.

Merzenich nói rằng họ đã có thể quay ngược đồng hồ chức năng nhận thức của con người để làm cho trí nhớ, khả năng giải quyết vấn đề và kỹ năng ngôn ngữ của họ trở nên trẻ trung hơn một lần nữa. “Chúng tôi mang đến cho mọi người những khả năng như một người trẻ tuổi–đảo ngược lại 20 hoặc 30 năm. Một người tám mươi tuổi đang hoạt động giống như họ 50 hoặc 60 tuổi,” Những bài tập này hiện đã có sẵn trong ba mươi cộng đồng độc lập và cho các cá nhân thông qua trang web Posit Science.

Posit Science cũng đang làm việc với quá trình xử lý thị giác. Khi chúng ta già đi, chúng ta không nhìn thấy rõ ràng, không chỉ vì đôi mắt chúng ta bị yếu mà vì các bộ xử lý thị giác trong não suy yếu. Người cao tuổi dễ bị phân tâm hơn và dễ bị mất kiểm soát đối với “sự chú ý trực quan” của họ. Posit Science đang phát triển các bài tập trên máy tính để giúp mọi người thực hiện nhiệm vụ và tăng tốc quá trình xử lý hình ảnh bằng cách yêu cầu các đối tượng tìm kiếm các đối tượng khác nhau trên màn hình máy tính.

Có những bài tập dành cho thùy trán nhằm hỗ trợ “các chức năng điều hành” của chúng ta, chẳng hạn như tập trung vào các mục tiêu và đưa ra quyết định. Những bài tập này cũng được thiết kế để giúp mọi người phân loại mọi thứ, làm theo các hướng dẫn phức tạp và tăng cường trí nhớ liên kết, đặt mọi người, địa điểm và mọi thứ vào bối cảnh. Posit Science cũng làm việc với sự kiểm soát vận động tinh. Khi chúng ta già đi, nhiều người trong chúng ta từ bỏ những việc như vẽ tranh, đan lát, chơi nhạc cụ hoặc làm đồ gỗ vì chúng ta không thể kiểm soát tốt các vận động tinh ở tay (ND: vận động tinh là khả năng điều khiển bàn tay và ngón tay). Những bài tập này hiện đang được phát triển, sẽ làm cho các bản đồ tay đang mất dần trong não bộ trở nên chính xác hơn.

Cuối cùng, họ đang nghiên cứu về cách “kiểm soát vận động thô”, một chức năng bị suy thoái khi chúng ta già đi, dẫn đến việc mất thăng bằng, hay bị té ngã, và những khó khăn trong vận động, đi lại. Bên cạnh sự hỏng hóc của bộ máy tiền đình, sự suy thoái này là do sự giảm phản hồi cảm giác từ bàn chân của chúng ta. Theo Merzenich, những đôi giày, được mang trong nhiều thập kỷ, đã hạn chế phản hồi cảm giác từ bàn chân lên bộ não của chúng ta. Nếu chúng ta đi chân trần, bộ não của chúng ta sẽ nhận được nhiều loại (thông tin) đầu vào khác nhau khi chúng ta đi trên các bề mặt không bằng phẳng. Giày là một nền tảng tương đối bằng phẳng, phân tán các kích thích, và các bề mặt chúng ta đi lại ngày càng mang tính nhân tạo và hoàn toàn bằng phẳng. Điều này dẫn đến việc không phân hóa được các bản đồ não cho lòng bàn chân chúng ta và hạn chế cách sự tiếp xúc với mặt đất điều khiển bàn chân của ta. Sau đó chúng ta có thể bắt đầu dùng gậy, khung tập hoặc nạng, hoặc dựa vào những giác quan khác để đứng vững. Bằng cách dùng đến những công cụ bù trừ này thay vì luyện tập các hệ thống não đang suy yếu của chúng ta, ta đang đẩy nhanh tốc độ suy thoái của chúng.

Khi chúng ta già đi, chúng ta muốn nhìn xuống bàn chân của mình trong khi bước xuống cầu thang hoặc khi đi trên địa hình hơi gập ghềnh, vì chúng ta không nhận được nhiều thông tin từ bàn chân của mình. Khi Merzenich dìu mẹ vợ của ông đi xuống cầu thang của căn biệt thự, ông cố thuyết phục bà đừng nhìn xuống chân và bắt đầu cảm nhận theo cách của mình, nhờ vậy bà sẽ duy trì và phát triển bản đồ cảm giác cho bàn chân của bà, thay vì để nó bị suy yếu.

Đã dành nhiều năm để mở rộng bản đồ não, Merzenich hiện giờ tin rằng sẽ có những lúc bạn muốn thu nhỏ chúng. Ông đang nghiên cứu để phát triển một cục tẩy tinh thần có thể loại bỏ một bản đồ não có vấn đề. Kỹ thuật này có thể được sử dụng rất nhiều cho những người có hồi ức sau sang chấn tâm lý, tái phát những suy nghĩ ám ảnh, nỗi sợ hãi hoặc các liên tưởng tâm thần có vấn đề.

Merzenich tiếp tục thách thức quan điểm cho rằng chúng ta bị mắc kẹt với bộ não ta có ngay từ khi được sinh ra. Bộ não của Merzenich được cấu trúc bởi sự hợp tác không ngừng của nó với thế giới, và không chỉ có những phần não được tiếp xúc nhiều nhất với thế giới, chẳng hạn như các giác quan của chúng ta, được định hình bởi trải nghiệm. Sự thay đổi tính dẻo được gây ra bởi trải nghiệm của chúng ta, đi sâu vào bộ não và cuối cùng là vào tận gen của chúng ta, uốn nắn lại chúng— một chủ đề mà chúng ta sẽ quay trở lại.

Biệt thự theo phong cách Địa Trung Hải này là nơi ông dành rất nhiều thời gian ngồi giữa những ngọn núi thấp. Ông ấy vừa trồng vườn nho của mình, và chúng tôi đi dạo qua đó. Vào buổi tối, chúng tôi nói về những năm đầu học triết học của ông ấy, trong khi bốn thế hệ của gia đình ông đang trêu đùa nhau và phá lên cười. Trên chiếc ghế dài là đứa cháu nhỏ tuổi nhất của Merzenich, mới vài tháng tuổi và ở giữa nhiều giai đoạn quan trọng. Cô bé làm cho tất cả mọi người xung quanh hạnh phúc vì bé là một khán giả tốt, bạn có thể thủ thỉ nựng cô bé, và cô bé sẽ hồi hộp lắng nghe. Bạn cù lét ngón chân của bé, và cô bé sẽ nhìn chăm chú. Khi cô bé nhìn quanh phòng, cô bé đang tiếp nhận nhận tất cả mọi thứ.

Chương 4.  Thị hiếu học được và Tình yêu

Tính dẻo thần kinh dạy cho chúng ta điều gì về sự thu hút tình dục và Tình yêu

A. là một thanh niên độc thân, đẹp trai đến với tôi vì anh ta bị trầm cảm. Anh ta vừa mới dan díu với một người phụ nữ xinh đẹp đã có bạn trai, và cô ta đã bắt đầu khuyến khích anh ta lạm dụng cô ta. Cô đã cố gắng lôi kéo A. làm theo những tưởng tượng tình dục mà trong đó cô ăn mặc như một cô gái điếm, và anh ta hung hãn “chiếm đoạt” cô.

Khi A. bắt đầu cảm nhận được sự nguy hiểm của mong muốn làm hài lòng cô ta, anh rất tức giận, từ bỏ nó, đi điều trị. Anh có lịch sử dính líu đến những người phụ nữ đã có bạn trai và mất kiểm soát về cảm xúc. Những cô bạn gái của anh là những người hay đòi hỏi hoặc có tính chiếm hữu, hoặc tàn nhẫn. Nhưng đó lại là những phụ nữ mang lại cảm xúc cho anh ta.

Những cô gái “tử tế”, chu đáo, tốt bụng lại khiến anh thấy buồn chán, và anh cảm thấy bất kỳ phụ nữ nào yêu anh một cách nhẹ nhàng, đơn giản thì đều khiếm khuyết.

Mẹ anh là một người nghiện rượu nặng, túng thiếu, quyến rũ và đem đến những cơn bão cảm xúc và những trận cuồng phong thịnh nộ dữ dội trong suốt thời thơ ấu của anh. A. nhớ lại chuyện bà ấy từng đập đầu em gái của anh vào lò sưởi và đốt ngón tay của đứa em trai cùng cha khác mẹ như một hình phạt vì tội nghịch mấy que diêm. Bà ta thường xuyên bị trầm cảm, thường dọa tự tử, và vai trò của anh trong nhà là luôn cảnh giác, trấn an bà và ngăn bà tự tử.

Mối quan hệ của anh với mẹ cũng rất gợi dục. Bà ta mặc váy ngủ xuyên thấu và nói chuyện với anh như thể là người tình. Anh nhớ lại lần bà ta rủ anh lên giường của bà khi anh còn nhỏ và một hình ảnh anh đang ngồi để bàn chân chỗ âm đạo khi bà ta thủ dâm. Anh ta thấy kích thích nhưng cũng rất phẫn nộ về cảnh này. Cha anh hiếm khi về nhà vì ông đã tránh mặt vợ, A. nhớ lại việc “thường xuyên thấy khó thở,” và cố ngăn những trận cãi vã giữa bố mẹ, bọn họ cuối cùng đã ly dị.

Phần lớn tuổi thơ của A. dành để kiềm chế cơn thịnh nộ đối với cha mẹ và anh thường xuyên thấy mình giống như một ngọn núi lửa chực chờ nổ tung. Các mối quan hệ thân mật dường như giống các dạng thức của bạo lực, trong đó những cô bạn gái đe dọa ăn tươi nuốt sống anh và đến lúc anh đi qua thời thơ ấu của mình, chỉ những phụ nữ hứa đem đến cảm giác đó mới khiến anh có cảm giác tình ái.

Con người có mức độ dẻo dai về tình dục khác thường so với các loài sinh vật khác. Chúng ta khác biệt nhau trong hành vi tình dục mà ta thích làm với đối tác của mình. Vị trí cơ thể đem lại sự hưng phấn và thỏa mãn tình dục cho chúng ta cũng khác nhau.

Đối với hầu hết chúng ta, kiểu người mà ta thấy quyến rũ là khác biệt nhau. Mọi người thường nói họ thấy tuýp người này thu hút họ hay tuýp người kia làm họ có “cảm giác”, và chúng khác nhau giữa mọi người.

Đối với một số người, kiểu người thu hút họ thay đổi khi họ trải qua những giai đoạn khác nhau và có những kinh nghiệm sống mới. Một người đàn ông đồng tính có những mối quan hệ lần lượt với những người đàn ông đến từ một chủng tộc hoặc một nhóm dân tộc nào đó, sau đó chuyển sang đàn ông ở nhóm khác, và trong mỗi giai đoạn, anh ta chỉ có thể bị thu hút trước người đàn ông trong nhóm hiện tại đang “hot”. Sau khi một giai đoạn kết thúc, anh ta có thể không bao giờ còn bị thu hút bởi một người đàn ông đến từ nhóm cũ nữa.

Anh học được một thị hiếu đối với những “tuýp người yêu” trong những mối quan hệ nhanh chóng và có vẻ như bị mê hoặc bởi một kiểu người (ví dụ “Người châu Á” hoặc “Người Mỹ gốc Phi”) hơn là bởi cá nhân. Tính dẻo dai trong sở thích tình dục của người đàn ông này đã phóng đại một sự thật chung rằng: ham muốn tình dục của con người không phải là một thôi thúc sinh học cố định, bất biếnmà nó có thể dễ dàng thay đổi bởi tâm lý của chúng ta và lịch sử những lần ăn nằm của ta. Và ham muốn tình dục của chúng ta cũng có thể cầu kỳ. Nhiều tài liệu khoa học ám chỉ và mô tả bản năng tình dục như một mệnh lệnh sinh học, một kẻ vũ phu thèm khát, lúc nào cũng đòi hỏi được thỏa mãn—bản năng tình dục là một kẻ háu ăn chứ không phải là người sành ăn. Nhưng con người thì giống với những người sành ăn hơn và bị thu hút trước những kiểu người nào đó và có những sở thích manh mẽ; có sẵn một “tuýp người hấp dẫn” khiến chúng ta trì hoãn sự thỏa mãn cho đến khi ta tìm được đúng người mình cần. Vì sự hấp dẫn đối với một tuýp người có tính giới hạn: người “có cảm giác với những cô nàng tóc vàng” có thể ngầm loại trừ những cô tóc đen, tóc nâu và tóc đỏ

Ngay cả thị hiếu tình dục đôi khi cũng có thể thay đổi. Mặc dù một số nhà khoa học ngày càng nhấn mạnh đến cơ sở bẩm sinh của thị hiếu tình dục của chúng ta, đúng là có một số người phần lớn cuộc đời họ là người dị tính luyến ái (bị thu hút trước người khác giới)— không có tiền sử lưỡng tính— và sau đó “thêm vào” một bạn tình đồng tính và ngược lại.

Độ dẻo dai về tình dục dường như đạt đến đỉnh cao ở những người từng có nhiều bạn tình khác nhau. Họ học cách thích nghi với từng người tình mới. Nhưng hãy nghĩ đến tính dẻo dai cần có của những cặp vợ chồng già với đời sống tình dục tốt đẹp. Vẻ ngoài của họ ở độ tuổi 60 rất khác biệt với độ tuổi 20, thời điểm họ gặp nhau, nhưng ham muốn tình dục của họ đã được điều chỉnh, nên họ vẫn thu hút lẫn nhau.

Nhưng độ dẻo dai tình dục vẫn còn đi xa hơn nữa. Những người theo chủ nghĩa tôn sùng đồ vật (fetishist) khao khát những vật vô tri vô giác. Một fetishist nam có thể bị kích thích bởi một đôi giày lông cao gót, hoặc bởi đồ lót của một phụ nữ, hơn là bản thân người phụ nữ ấy. Từ thời xa xưa, một số người ở nông thôn đã giao hợp với động vật. Một số người dường như không bị thu hút bởi con người thực nhiều bằng những kịch bản tình dục phức tạp, ở đó bạn tình đóng các vai biến thái khác nhau như bạo dâm, khổ dâm, thị dâm và phô dâm. Khi họ đặt một quảng cáo trên trang cá nhân, mô tả những thứ họ đang tìm kiếm ở một người yêu thường nghe giống như một bản mô tả công việc hơn là một con người họ muốn quen biết.

Cứ cho rằng tình dục là một bản năng, và bản năng được định nghĩa theo truyền thống là một hành vi di truyền duy nhất của một loài, thay đổi rất ít từ cá thể này sang cá thể khác, thì sự đa dạng trong sở thích tình dục của chúng ta lại gây tò mò. Nhìn chung thì bản năng chống lại sự thay đổi và được cho là có một mục đích rõ ràng, không thể thương lượng, là bất biến, chẳng hạn như mục đích sinh tồn. Tuy nhiên, “bản năng” tình dục của con người dường như đã phá vỡ mục đích cốt lõi là sinh sản và thay đổi đến mức gây hoang mang, không có ở những loài động vật khác. Vì bản năng tình dục ở động vật có vẻ như tự hành xử và hành động như một bản năng. Không có bản năng nào khác có thể đem đến thỏa mãn lớn mà không đạt được mục đích sinh học của nó, và không có bản năng nào khác bị tách rời khỏi mục đích của nó. Các nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng trong một thời gian dài, loài người không biết rằng quan hệ tình dục là cần thiết để sinh sản. “Thực tế cuộc sống” này phải được tổ tiên chúng ta học hỏi, giống như trẻ em ngày nay phải học nó. Sự tách rời khỏi mục đích chính của nó có lẽ là dấu hiệu lớn nhất của tính dẻo dai về tình dục.

Tình yêu cũng rất linh hoạt và biểu hiện của nó đã thay đổi theo lịch sử. Dù chúng ta nói về tình yêu lãng mạn như thứ tình cảm tự nhiên nhất, nhưng trên thực tế, dành mọi tình cảm thân mật, dịu dàng và ham muốn cho duy nhất một người, cho đến khi cái chết chia lìa chúng ta không phổ biến trong tất cả các xã hội và chỉ gần đây mới phổ biến. Trong nhiều thiên niên kỷ, hầu hết các cuộc hôn nhân được cha mẹ sắp đặt vì những lý do thực tế. Chắc chắn là có những câu chuyện khó quên về tình yêu lãng mạn liên quan đến hôn nhân trong Kinh thánh, như trong Song of Songs, và liên quan đến thảm họa trong thơ hát rong thời trung cổ và sau này, trong các tác phẩm của Shakespeare. Nhưng đến thế kỷ mười hai, tình yêu lãng mạn mới bắt đầu nhận được sự chấp thuận của xã hội ở các tầng lớp quý tộc và tòa án ở châu Âu – ban đầu giữa một người đàn ông độc thân và một phụ nữ đã kết hôn, thường đi đến cái kết buồn là ngoại tình hoặc cuộc tình không trọn vẹn. Chỉ với sự truyền bá lý tưởng dân chủ của chủ nghĩa cá nhân thì cái quan điểm cho rằng những người yêu nhau nên được quyền lựa chọn bạn đời dành cho họ mới trở nên vững chắc hơn và dần dần trở thành điều tự nhiên và thiết yếu.

Có lý do để đặt câu hỏi rằng liệu tính dẻo dai tình dục của chúng ta có liên quan đến tính dẻo thần kinh không. Nghiên cứu cho thấy tính dẻo thần kinh không bị cắm chốt trong những khu vực nhất định trong bộ não cũng như không bị giới hạn trong các khu vực xử lý cảm giác, vận động và nhận thức mà chúng ta đã tìm hiểu ở các chương trước. Cấu trúc não bộ điều chỉnh các hành vi bản năng, bao gồm cả tình dục, được gọi là vùng dưới đồi, có tính dẻo, cũng như hạch hạnh nhân, cấu trúc não bộ xử lý cảm xúc và lo lắng. Trong khi một số phần của não, chẳng hạn như vỏ não, có thể dẻo hơn vì có nhiều tế bào thần kinh và các kết nối sẽ bị thay đổi, thậm chí các khu vực không vỏ não vẫn thể hiện tính dẻo. Trong khi một số phần não, chẳng hạn như vỏ não, có thể dẻo dai hơn vì có nhiều tế bào thần kinh hơn và các kết nối sẽ bị sửa đổi, thậm chí các khu vực không có vỏ não cũng cho thấy có tính dẻo. Nó là một tính chất của tất cả các mô não. Tính dẻo dai tồn tại ở vùng hải mã (khu vực biến ký ức của chúng ta từ ngắn hạn sang dài hạn) cũng như trong các khu vực kiểm soát hơi thở, xử lý cảm giác nguyên thủy và xử lý cơn đau. Nó tồn tại trong tủy sống – như các nhà khoa học đã chỉ ra; nam diễn viên Christopher Reeve, người bị chấn thương cột sống nghiêm trọng, đã thể hiện sự dẻo dai như vậy, khi anh có thể thông qua tập luyện thể dục không ngừng nghỉ, để phục hồi một số cảm giác và khả năng vận động bảy năm sau tai nạn. Merzenich nói về điều này như sau: “Bạn không thể có được độ dẻo dai trong tình trạng cô lập… nó chắc chắn là điều bất khả thi.” Các thực nghiệm của ông cho thấy nếu một hệ thống não bộ thay đổi thì những hệ thống có liên kết với nó cũng thay đổi theo. Cùng một “Nguyên tắc dẻo”- sử dụng nó hay đánh mất nó, hay những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau — áp dụng xuyên suốt. Các khu vực khác nhau của não sẽ không thể hoạt động cùng nhau nếu không theo nguyên tắc như vậy.

Nguyên tắc về tính dẻo áp dụng cho các bản đồ não trong vỏ não cảm giác, vận động và ngôn ngữ liệu có áp dụng cho những bản đồ phức tạp hơn không, chẳng hạn như những bản đồ đại diện cho các mối quan hệ, tình dục của chúng ta? Merzenich cũng đã cho thấy các bản đồ não phức tạp bị chi phối bởi các nguyên tắc dẻo giống như các bản đồ đơn giản hơn. Động vật tiếp xúc với một giai điệu đơn giản sẽ phát triển một vùng bản đồ não duy nhất để xử lý nó. Các con vật được cho tiếp xúc với một mô hình phức tạp hơn, chẳng hạn như giai điệu sáu âm điệu, sẽ không chỉ liên kết sáu vùng bản đồ khác nhau với nhau mà sẽ phát triển một vùng mã hóa toàn bộ giai điệu. Các bản đồ giai điệu phức tạp hơn tuân theo các nguyên tắc dẻo giống như bản đồ cho các âm đơn.

Freud từng viết “Các bản năng tình dục là đáng chú ý đối với chúng ta vì tính dẻo dai và khả năng thay đổi các mục tiêu của chúng.” Freud không phải là người đầu tiên cho rằng tình dục có tính dẻo— Plato, trong cuộc đối thoại về tình yêu, đã lập luận rằng Eros của con người có nhiều hình thức – nhưng Freud đã đặt nền móng cho sự hiểu biết về thần kinh học về tính dẻo của tình yêu và tình dục.

Một trong những đóng góp quan trọng nhất của ông là phát hiện ra những giai đoạn quan trọng đối với sự dẻo dai tình dục. Freud cho rằng khả năng yêu thương và tình dục của một người trưởng thành diễn ra theo từng giai đoạn, bắt đầu từ những gắn bó đam mê đầu tiên của trẻ sơ sinh với cha mẹ. Ông học được từ bệnh nhân của mình, và từ việc quan sát trẻ em, rằng thời thơ ấu, chứ không phải tuổi dậy thì, mới là giai đoạn quan trọng đầu tiên đối với tình dục và sự thân mật, và đó là giai đoạn mà đứa trẻ có khả năng đam mê, những cảm giác tiền tình dục— sự phải lòng, những cảm giác yêu thương, và trong một số trường hợp là sự hưng phấn tình dục, như anh chàng A. trong ví dụ ở trên. Freud phát hiện ra rằng việc lạm dụng tình dục trẻ em là có hại vì nó ảnh hưởng đến thời kỳ quan trọng của tính dục trong thời thơ ấu, hình thành những kiểu người hấp dẫn và suy nghĩ về chuyện tình dục về sau của chúng ta. Trẻ em thường thiếu thốn tình cảm và phát triển những mối gắn bó đam mê với cha mẹ của chúng. Nếu cha mẹ ấm áp, dịu dàng và đáng tin cậy, đứa trẻ sẽ thường xuyên phát triển một thị hiếu đối với kiểu quan hệ có những phẩm chất như vậy về sau; nếu cha mẹ không quan tâm, lạnh lùng, xa cách, tức giận, mâu thuẫn, vừa yêu vừa ghét hoặc tính khí thất thường, đứa trẻ có thể tìm kiếm một người bạn đời trưởng thành có xu hướng tương tự. Cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng một nghiên cứu quan trọng hiện tại đã xác nhận quan điểm cơ bản của Freud rằng các mô hình gắn bó và liên kết với người khác hồi nhỏ, nếu có vấn đề, thì có thể “ghi vào” bộ não của chúng ta thuở ấu thơ và lặp lại ở tuổi trưởng thành. Nhiều khía cạnh của kịch bản tình dục mà A. thực hiện khi lần đầu tiên anh đến gặp tôi là những sự lặp lại các tình huống tổn thương tâm lý thời thơ ấu của anh ấy, chúng được ngụy trang mỏng manh – chẳng hạn như việc anh bị thu hút bởi một người phụ nữ bất ổn, vượt qua ranh giới tình dục bình thường trong những mối quan hệ lén lút vụng trộm, nơi sự thù địch và hưng phấn tình dục hợp nhất, còn người yêu chính thức đang bị cắm sừng của cô nàng thì sắp phát hiện ra mối quan hệ vụng trộm này.

Quan điểm về giai đoạn quan trọng được hình thành vào khoảng thời gian Freud bắt đầu viết về tình dục và tình yêu, bởi các nhà nghiên cứu phôi thai đã quan sát thấy rằng trong phôi thai, hệ thần kinh phát triển theo từng giai đoạn và nếu các giai đoạn này bị xáo trộn, động vật hoặc con người sẽ bị tổn thương, thường là thảm họa cho cuộc sống. Mặc dù Freud không sử dụng thuật ngữ này, nhưng những gì ông nói về giai đoạn phát triển tình dục thuở ấu thơ phù hợp với những gì chúng ta biết về các giai đoạn quan trọng. Chúng là những cửa sổ thời gian ngắn khi các hệ thống não bộ và bản đồ mới phát triển với sự trợ giúp của sự kích thích từ những người trong môi trường của cá thể.

Những dấu vết của tình cảm thời thơ ấu trong tình yêu và tình dục của người trưởng thành có thể tìm thấy trong các hành vi hằng ngày. Khi những người trưởng thành trong nền văn hóa của chúng ta có màn dạo đầu trước khi quan hệ, hoặc bộc lộ tình cảm của họ, họ thường gọi nhau là “baby” hoặc “babe” (em yêu). Họ sử dụng những từ mà mẹ dành cho họ khi còn nhỏ, chẳng hạn như “mật ong” và “bánh ngọt”, những từ gợi lên những năm tháng đầu đời khi người mẹ bày tỏ tình yêu của mình bằng cách cho ăn, vuốt ve cưng nựng và thủ thỉ với con – cái mà Freud gọi là giai đoạn môi miệng (oral phase), giai đoạn quan trọng đầu tiên của tình dục, bản chất của nó được tóm tắt trong các từ “nuôi dưỡng” và “ôm ấp” – dịu dàng chăm sóc, yêu thương và cho ăn uống. Đứa bé cảm thấy hợp nhất với người mẹ, và niềm tin của nó đối với người khác phát triển khi đứa bé được bế bồng và nuôi dưỡng bằng một loại thức ăn có đường, sữa. Được yêu thương, chăm sóc và cho ăn có sự liên kết về mặt tinh thần trong tâm trí và kết nối với nhau trong não trong trải nghiệm đầu tiên của chúng ta sau khi sinh.

Khi những người trưởng thành nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ trẻ con, nói những từ như “bánh ngọt” và “cục cưng” để gọi nhau, thì theo Freud, họ đang “thoái lui,” chuyển từ những giai đoạn tâm lý trưởng thành của mối quan hệ sang những giai đoạn trước đây của cuộc sống. Theo thuật ngữ về tính dẻo, tôi tin rằng sự thoái lui này liên quan đến việc vạch trần những con đường mòn thần kinh cũ, sau đó kích hoạt tất cả những mối liên kết của giai đoạn trước đây. Sự thoái lui có thể thú vị và vô hại, như trong màn dạo đầu ở người trưởng thành, hoặc nó có thể gây ra vấn đề khi những con đường mòn thần kinh gây hấn thời thơ ấu được mở ra và người trưởng thành ấy đang sắp nổi trận lôi đình.

Ngay cả việc “nói chuyện thô tục, bậy bạ” cũng cho thấy những dấu vết của các giai đoạn tính dục lúc sơ sinh. Rốt cuộc thì tại sao tình dục lại bị xem là “bẩn thỉu”? Thái độ này phản ánh quan niệm của một đứa trẻ về tình dục từ giai đoạn khi nó có ý thức tập đi vệ sinh, tiểu tiện và đại tiện, và bất ngờ khi biết bộ phận sinh dục, liên quan đến việc đi tiểu, và nó cũng rất gần với hậu môn, cái này cũng liên quan đến tình dục, và rằng Mẹ cho phép Cha nhét cái bộ phận “bẩn thỉu” của ông ấy vào một cái lỗ ở rất gần với hậu môn của bà. Người lớn nhìn chung không thấy khó chịu bởi điều này, vì ở tuổi thiếu niên, họ đã trải qua một giai đoạn quan trọng khác của sự dẻo dai về tình dục, mà trong đó bộ não của họ được tổ chức lại, do đó khoái cảm của tình dục trở nên đủ mạnh để vượt qua mọi sự ghê tởm.

Freud chỉ ra rằng nhiều bí ẩn về tình dục có thể được hiểu như những cắm chốt giai đoạn quan trọng. Sau Freud, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy một cô gái từng bị cha bỏ rơi khi còn bé theo đuổi một người đàn ông không sẵn sàng, đáng tuổi cha cô, hoặc những người được nuôi dạy một bà mẹ nữ hoàng-băng giá thường tìm kiếm mẫu người như vậy làm người yêu, đôi khi bản thân họ trở nên “lạnh lùng” vì họ chưa bao giờ trải nghiệm được sự thấu cảm trong giai đoạn quan trọng, toàn bộ phần não đó của họ không thể phát triển được. Và nhiều ‘hư hỏng’ có thể được lý giải bằng thuật ngữ tính dẻo và sự dai dẳng của những xung đột thời thơ ấu.

Nhưng điểm mấu chốt là trong những giai đoạn quan trọng của chúng ta, chúng ta có thể có những thị hiếu và khuynh hướng tình dục và tình yêu được ghi vào bộ não của ta và có tác động manh mẽ đến phần đời còn lại của chúng ta. Và sự thật là chúng ta có thể có những thị hiếu khác nhau về tình dục góp phần vào sự khác biệt tình dục to lớn giữa chúng ta.

Quan điểm cho rằng có một giai đoạn quan trọng định hình ham muốn tình dục ở người trưởng thành trái ngược với lập luận phổ biến hiện nay nói rằng những thừ thu hút chúng ta là sản phẩm của yếu tố sinh học nhiều hơn là của lịch sự cá nhân chúng ta. Một số người— chẳng hạn như người mẫu và ngôi sao điện ảnh—được nhiều người xem là xinh đẹp hay gợi cảm. Một chuỗi sinh học nhất định dạy cho chúng ta rằng những người này là quyến rũ vì họ bộc lộ những dấu hiệu sinh học của sự mạnh mẽ, hứa hẹn khả năng sinh sản và sức mạnh: một nước da sáng sủa và các đặc điểm đối xứng có nghĩa họ là một người bạn đời tiềm năng không bị bệnh tật; dáng người đồng hồ cát là dấu hiệu phụ nữ có khả năng sinh sản; Cơ bắp của một người đàn ông dự đoán anh ta sẽ có thể bảo vệ người phụ nữ và đứa con.

Nhưng điều này đơn giản hóa những gì sinh học thực sự dạy. Không phải ai ai cũng yêu vì thể xác, như khi một phụ nữ nói “Tôi biết rằng khi lần đầu tiên tôi nghe thấy giọng nói đó, anh ấy là dành cho tôi,” âm nhạc của giọng nói có lẽ là chỉ báo về tâm hồn người đàn ông tốt hơn vẻ ngoài cơ thể anh ta. Và thị hiếu tình dục đã thay đổi qua nhiều thế kỷ. Những mỹ nhân của Ruben được đánh giá theo các tiêu chuẩn hiện tại, và trong nhiều thập kỷ, số liệu thống kê quan trọng của các tờ gập giữa của tạp chí Playboy và người mẫu thời trang đã thay đổi từ khêu gợi đến ái nam ái nữ. Thị hiếu tình dục rõ ràng bị ảnh hưởng bởi văn hóa và kinh nghiệm và thường được tiếp thu và sau đó được ghi vào bộ não.

Thị hiếu học được” (Acquired tastes) theo định nghĩa là thứ do học mà nên, không giống như “thị hiếu” bẩm sinh. Một em bé không cần phải học để biết mùi vị của sữa, nước hoặc đồ ngọt; những điều này ngay lập tức được xem là dễ chịu. Còn với “thị hiếu học được” thì lúc đầu cảm thấy thờ ơ hoặc không thích nhưng sau này trở thành dễ chịu – chẳng hạn như mùi vị của pho mát, vị đắng của Ý, rượu vang không ngọt, cà phê, pate. Nhiều món ngon mà mọi người phải trả giá đắt, rằng họ phải “phát triển vị giác cho nó”, chính là những món ăn từng làm họ chán ghét khi còn nhỏ.

Vào thời Elizabeth, những người yêu nhau say mê mùi cơ thể của nhau đến nỗi người phụ nữ thường giữ một quả táo gọt vỏ ở nách cho đến khi nó thấm mồ hôi và mùi của cô. Cô sẽ tặng “quả táo tình yêu” này cho người yêu để ngửi khi vắng cô. Chúng ta thì ngược lại, sử dụng hương liệu tổng hợp của trái cây và hoa để che giấu mùi cơ thể với người yêu của chúng ta. Không dễ để xác định trong hai cách này, cách tiếp cận nào là do học được và cách nào là tự nhiên. Một chất gây nghiện “tự nhiên” đối với chúng ta là nước tiểu của bò được sử dụng bởi bộ lạc Masai ở Đông Phi như một loại kem dưỡng cho tóc – hệ quả trực tiếp của tầm quan trọng của bò trong văn hóa của họ. Nhiều thị hiếu mà chúng ta cho là “tự nhiên” có được thông qua học tập và trở thành “bản chất thứ hai” của chúng ta. Chúng ta không thể phân biệt “bản chất thứ hai” của mình với “bản chất ban đầu” của mình bởi vì bộ não ni-lông/dẻo của chúng ta, một khi được tái tạo, nó sẽ phát triển một bản chất mới, cũng như bản chất sinh học của chúng ta.

Dịch bệnh phim khiêu dâm hiện nay đưa ra một minh chứng sinh động rằng thị hiếu tình dục có thể học được. Nội dung khiêu dâm, được cung cấp bởi các kết nối Internet tốc độ cao, đáp ứng mọi điều kiện tiên quyết cho sự thay đổi của tính dẻo thần kinh.

Thoạt nhìn thì nội dung khiêu dâm có vẻ chỉ là một vấn đề thuần túy về bản năng: những hình ảnh khiêu dâm kích thích phản ứng bản năng, là sản phẩm của hàng triệu năm tiến hóa. Nhưng nếu đó là sự thật thì nội dung khiêu dâm sẽ không thay đổi.

Các yếu tố kích hoạt–các bộ phận cơ thể và tỷ lệ của chúng–đã thu hút tổ tiên chúng ta thì cũng sẽ kích thích chúng ta. Đây là những gì các nhà sản xuất phim khiêu dâm từng khiến chúng ta tin, vì họ cho rằng họ đang chiến đấu chống sự kìm nén tình dục, những cấm kỵ và sợ hãi và mục tiêu của họ là giải phóng bản năng tình dục tự nhiên, bị dồn nén.

Nhưng trên thực tế, nội dung khiêu dâm là một hiện tượng động, minh họa hoàn hảo cho tiến trình của một “thị hiếu học được”. Ba mươi năm trước, nội dung khiêu dâm nặng “hardcore” nghĩa là mô tả rõ quá trình giao hợp giữa hai đối tác đang hứng tình, phô bày bộ phận sinh dục của họ. Khiêu dâm nhẹ “softcore” nghĩa là những tấm ảnh về phụ nữ, đa số đang nằm trên giường, trong toilet hoặc trong một số khung cảnh gợi tình, trong những trạng thái không mảnh vải che thân, lộ ngực.

Còn hiện giờ thì khiêu dâm nặng hardcore ngày càng biến hóa và bị thống trị bởi các chủ đề bạo dâm, tình dục cưỡng bức, xuất tinh lên mặt phụ nữ, và giao hợp hậu môn thô bạo, tất cả các kịch bản đều hợp nhất tình dục với sự làm nhục và căm ghét. Nội dung khiêu dâm nặng hardcore bây giờ đang khám phá thế giới đồi trụy, còn khiêu dâm nhẹ bây giờ lại là những nội dung của khiêu dâm nặng cách đây vài thập kỷ, mô tả quá trình giao hợp giữa những người lớn, có sẵn trên truyền hình cáp. Những hình ảnh khiêu dâm tương đối nhẹ nhàng của thời xưa – phụ nữ trong tình trạng không mảnh vải che thân – bây giờ được chiếu trên truyền thông chính thống quanh năm suốt tháng, trong mọi thứ, bao gồm tivi, các video nhạc rock, phim truyền hình dài tập, quảng cáo, vân vân.

Phim ảnh khiêu dâm đã phát triển ngoạn mục; nó chiếm 25 phần trăm số video cho thuê và là lý do phổ biến thứ tư khiến mọi người lên mạng. Một cuộc khảo sát người xem của MSNBC.com vào năm 2001 cho thấy 80% cảm thấy họ dành quá nhiều thời gian cho các trang web khiêu dâm đến mức họ đang gây nguy hiểm cho các mối quan hệ hoặc công việc của họ. Ảnh hưởng của phim khiêu dâm nhẹ nhàng bây giờ là sâu sắc nhất bởi vì, hiện tại nó không còn bị che giấu nữa, nó ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi có ít kinh nghiệm tình dục và đặc biệt là tâm trí dẻo (bộ não ni-lông), trong quá trình hình thành thị hiếu và ham muốn tình dục của họ. Tuy nhiên, ảnh hưởng dẻo của nội dung khiêu dâm đối với người lớn cũng có thể sâu sắc và những người xem porn không ý thức được mức độ mà bộ não của họ bị định hình lại bởi nó.

Trong khoảng thời gian từ giữa đến cuối những năm 1990, khi Internet phát triển nhanh chóng và nội dung khiêu dâm bùng nổ trên đó, tôi đã điều trị hoặc đánh giá một số người đàn ông có cùng một câu chuyện liên quan đến nó. Mỗi người đều học được thị hiếu về một loại hình khiêu dâm, không ít thì nhiều, gặp rắc rối hoặc thậm chí ghê tởm bản thân, có ảnh hưởng đáng lo ngại đến ham muốn tình dục của anh ta, và cuối cùng ảnh hưởng đến mối quan hệ của anh ta và chứng liệt dương.

Không ai trong số họ là người chưa trưởng thành, ngại giao tiếp xã hội hoặc sống thu mình vào thế giới phim khiêu dâm để thay thế cho các mối quan hệ với phụ nữ ngoài đời thực. Họ đều là những người đàn ông thú vị, nhìn chung là tử tế chu đáo, có những mối quan hệ hoặc hôn nhân tương đối thành công.

Thông thường, khi tôi đang điều trị cho một trong số những người đàn ông đang gặp vấn đề với porn, anh ta sẽ nói rằng anh thấy mình ngày càng dành nhiều thời gian hơn trên nternet, xem nội dung khiêu dâm và thủ dâm. Anh ta có thể cố gắng xoa dịu sự khó chịu của mình bằng cách quả quyết rằng tất cả mọi người đều xem porn. Trong vài trường hợp, anh ta sẽ bắt đầu xem một trang web kiểu như Playboy hoặc xem một tấm ảnh hay video khỏa thuân mà ai đó gửi cho anh. Những trường hợp khác thì anh ta sẽ truy cập một trang web vô hại, có một quảng cáo gợi ý đã chuyển hướng anh sang những trang web đen và chẳng mấy chốc anh sẽ bị cuốn hút.

Một số người thông báo về một thứ khác, thường lướt qua, đã thu hút sự chú ý của tôi. Họ nói là ngày càng thấy khó bị kích thích bởi người bạn tình đời thực của họ (bạn gái hoặc vợ), dù một cách khách quan họ vẫn thấy bạn tình quyến rũ.

Khi tôi hỏi liệu hiện tượng này có liên quan gì đến việc xem nội dung khiêu dâm hay không, họ trả lời rằng ban đầu nó giúp họ phấn khích hơn trong quan hệ tình dục nhưng theo thời gian lại có tác dụng ngược lại. Bây giờ thì thay vì sử dụng các giác quan của họ để thưởng thức chuyện chăn gối trong hiện tại với người bạn tình của họ, thì việc ân ái ngày càng buộc họ phải tưởng tượng rằng họ đang đóng một vai nào đó trong một kịch bản phim porn. Một số người thì nhẹ nhàng thuyết phục bạn tình của họ hành xử giống như những ngôi sao phim porn, và họ ngày càng thích “đụ” thay vì “làm tình”. Những tưởng tượng về tình dục của họ ngày càng bị chi phối bởi các cảnh phim đen mà họ từng xem, chúng được tải vào bộ não của họ và những kịch bản mới của phim đen thường bạo lực và nguyên thủy hơn những tưởng tượng tình dục trước đây của họ. Tôi có cảm tưởng rằng óc sáng tạo trong chuyện tình dục ở những người đàn ông này đã chết và họ trở nên nghiện ngập phim porn trên mạng.

Những thay đổi tôi quan sát được không giới hạn ở một vài người trong trị liệu tâm lý. Một sự thay đổi về xã hội đang diễn ra. Mặc dù thường rất khó để lấy được thông tin về đời sống tình dục cá nhân, nhưng điều này không đúng với nội dung khiêu dâm ngày nay, bởi vì việc sử dụng nó ngày càng công khai. Sự thay đổi này trùng khớp với sự thay đổi từ gọi nó là “nội dung khiêu dâm” sang thuật ngữ “khiêu dâm” thông thường hơn. Đối với cuốn sách về cuộc sống sinh viên đại học ở Mỹ, I Am Charlotte Simmons, Tom Wolfe đã dành vài năm để quan sát sinh viên trong khuôn viên trường đại học. Trong sách, một cậu thanh niên tên là Ivy Peters, đến phòng của sinh viên nam và nói: “Ai có phim đen không?

Wolfe tiếp tục, “Đây không phải là một yêu cầu bất thường. Nhiều chàng trai đã công khai nói về việc họ thủ dâm ít nhất một lần hằng ngày, cứ như thể đây là kiểu bảo trì cẩn thận hệ thống tâm sinh dục.” Một cậu khác nói với Ivy Peters, “Thử lên tầng ba hỏi xem. Mấy thằng trên đó có vài tờ tạp chí khiêu dâm.” Nhưng Peters đáp lại, “Xem tạp chí giờ không kích thích được tao … tao cần videos.” Một cậu khác nói “Oh, f’r Chrissake, I.P., khoảng 10h tối. Vào giờ khác sẽ có mấy đứa đến đây xxx. . . Và mày đang tìm phim đen…” Rồi Ivy “nhún vai nói ‘Tao cần porn. Có gì to tát đâu?’“

Vấn đề lớn ở đây là “ngưỡng chịu đựng” của cậu ta. Cậu ta nhận ra mình đang giống như một người nghiện ma túy, không còn thấy phê trước những hình ảnh khiêu dâm từng kích thích cậu. Và điều nguy hiểm là “ngưỡng chịu đựng” này sẽ đi vào các mối quan hệ, như nó từng làm với các bệnh nhân mà tôi đã gặp, dẫn đến những vấn đề tiềm ẩn và vấn đề mới về thị hiếu, đôi khi không được chào đón. Khi các nhà sản xuất nội dung khiêu dâm ba hoa rằng họ đang thử những thứ mới mẻ bằng cách giới thiệu những chủ đề mới kích thích hơn. Điều họ không nói đó là họ buộc phải làm thế vì các khách hàng của họ đang xây dựng một “ngưỡng chịu đựng” trước nội dung khiêu dâm. Các trang sau của tạp chí khiêu dâm cho đàn ông và các trang web khiêu dâm Internet chứa đầy quảng cáo về các loại thuốc Viagra – thuốc được phát triển cho những người đàn ông lớn tuổi có vấn đề cương dương liên quan đến lão hóa và tắc nghẽn mạch máu ở dương vật. Ngày nay, những người đàn ông trẻ tuổi lướt web khiêu dâm rất sợ chứng bất lực, hay “rối loạn cương dương” vì nó được gọi một cách hoa mỹ. Thuật ngữ gây hiểu lầm này ngụ ý rằng những người đàn ông đó có vấn đề ở dương vật của họ, nhưng thực tế thì vấn đề nằm ở trong đầu óc của họ, trong bản đồ não bộ tình dục của họ.

Dương vật hoạt động tốt khi họ xem nội dung khiêu dâm. Họ hiếm khi nhận ra có thể có mối quan hệ giữa nội dung khiêu dâm mà họ đang tiêu thụ và chứng bất lực của họ. (Tuy nhiên, một vài đàn ông mô tả thời gian dành cho các trang web porn trên máy tính như thời gian dành để “bộ não của tôi tự sướng.”) Một chàng trai trong một cảnh của cuốn sách của Wolfe mô tả những cô gái sắp quan hệ tình dục với bạn trai của họ giống như “những cô gái cho bạn tình bắn tinh lên người.” Cậu ta cũng bị tác động bởi các hình ảnh khiêu dâm chẳng hạn như “cum dumpsters,” (nhiều phụ nữ trong phim porn, lúc nào cũng háo hức, sẵn sàng tiếp nhận và do đó bị giảm giá trị.)

Nghiện nội dung khiêu dâm trên mạng không phải là một phép ẩn dụ. Không phải mọi chứng nghiện ngập đều liên quan tới ma túy hay rượu. Người ta có thể bị nghiện cờ bạc, thậm chí nghiện chạy (thể dục). Tất cả những người nghiện đều cho thấy sự mất kiểm soát đối với hoạt động, cảm thấy thôi thúc phải tìm đến nó bất chấp những hậu quả tiêu cực, phát triển “ngưỡng chịu đựng” đến nỗi họ cần mức độ kích thích cao và cao hơn nữa để thỏa mãn, và trải nghiệm thiếu thuốc nếu họ không thể thực hiện được hành vi nghiện ngập.

Mọi sự nghiện ngập đều kéo theo sự thay đổi tính dẻo thần kinh trong bộ não về lâu dài, đôi khi kéo dài suốt đời. Đối với người nghiện, sự điều độ là bất khả thi, và họ phải tránh hoàn toàn với thuốc hoặc hoạt động nếu họ đang tìm cách tránh hành vi nghiện ngập.

Để xác định mức độ gây nghiện của một loại chất gây nghiện, các nhà nghiên cứu tại Viện Y tế Quốc gia (NIH) ở Maryland huấn luyện một con chuột bấm một nút cho đến khi nó nhận được một liều thuốc. Con chuột càng cố gắng để bấm nút, thì loại thuốc đó càng gây nghiện. Cocaine, và hầu như tất cả các loại thuốc bất hợp pháp khác, và thậm chí cả những chứng nghiện không liên quan tới thuốc chẳng hạn như nghiện chạy bộ làm cho chất dẫn truyền thần kinh đem lại khoái cảm dopamine hoạt động mạnh hơn trong não. Dopamine được gọi là chất dẫn truyền phần thưởng, vì khi chúng ta hoàn thành một việc gì đó—tham gia một cuộc thi chạy và giành chiến thắng—bộ não của ta kích hoạt phóng thích dopamine. Mặc dù kiệt sức nhưng chúng ta nhận được một nguồn năng lượng, khoái cảm phấn khích, sự tự tin và thậm chí xung phong chạy thêm một vòng mừng chiến thắng. Ngược lại, những người thua cuộc không nhận được liều dopamine, thì ngay lập tức bị cạn kiệt năng lượng, sụp đổ ngay tại vạch đích và cảm thấy tồi tệ về bản thân họ. Bằng cách chiếm quyền điều khiển hệ thống dopamine của chúng ta, các chất gây nghiện đem đến cho ta sự khoái cảm, niềm vui mà ta không cần phải nỗ lực để đạt được nó.

Dopamine, như chúng ta đã thấy trong nghiên cứu của Merzenich, cũng liên quan đến sự thay đổi tính dẻo. Sự gia tăng dopamine khiến chúng ta rộn ràng cũng làm củng cố những kết nối thần kinh chịu trách nhiệm cho hành vi khiến chúng ta hoàn thành mục tiêu của mình. Khi Merzenich sử dụng một điện cực để kích thích hệ thống tưởng thưởng dopamine của động vật trong khi phát âm thanh, sự phóng thích dopamine kích thích sự thay đổi tính dẻo, mở rộng sự đại diện cho âm thanh trong bản đồ thính giác của con vật. Một liên kết quan trọng với phim khiêu dâm là dopamine cũng được giải phóng trong hưng phấn tình dục, làm tăng ham muốn tình dục ở cả hai giới, tạo điều kiện đạt cực khoái và kích hoạt trung tâm khoái cảm của não. Đó là sức mạnh gây nghiện của nội dung khiêu dâm.

Eric Nestler, tại đại học University of Texas, đã chỉ ra cách sự nghiện ngập gây ra những thay đổi vĩnh viễn trong bộ não của động vật. Một liều duy nhất của nhiều loại thuốc gây nghiện sẽ tạo ra một loại protein được gọi là ΔFosB (phát âm là “delta Fos B“), tích tụ trong các tế bào thần kinh. Mỗi lần sử dụng thuốc, ΔFosB sẽ tích tụ nhiều hơn, cho đến khi nó bật công tắc điều khiển các gen, quyết định đến việc bật hoặc tắt gen nào đó.

Việc bật công tắc này gây ra những thay đổi kéo dài sau khi ngừng thuốc, dẫn đến tổn thương không thể phục hồi đối với hệ thống dopamine của não và khiến con vật dễ bị nghiện hơn. Những chứng nghiện không liên quan đến thuốc, chẳng hạn như nghiện chạy và uống đồ ngọt, cũng dẫn đến sự tích tụ FosB và những thay đổi vĩnh viễn trong hệ thống dopamine.

Các nhà sản xuất nội dung khiêu dâm hứa hẹn mang đến niềm vui lành mạnh và giảm bớt căng thẳng tình dục, nhưng thứ họ cung cấp là sự nghiện ngập, ngưỡng chịu đựng và cuối cùng là giảm khoái cảm. Nghịch lý thay, những bệnh nhân nam mà tôi làm việc thường thèm khát phim khiêu dâm nhưng họ không thích nó.

Quan điểm thông thường là một người nghiện tìm lại chất gây nghiện để xoa dịu bản thân vì anh ta thích sự hưng phấn mà nó mang lại và không thích nỗi đau, khổ sở khi thiếu nó. Nhưng người nghiện dùng thuốc thường không trông mong đạt được khoái cảm, khi họ biết rằng họ không dùng đủ liều để khiến họ phê, và sẽ thèm khát nhiều hơn ngay cả trước khi họ bắt đầu ngưng. MUỐN và THÍCH là hai thứ khác nhau. Một người nghiện cảm thấy thèm thuốc vì bộ não ni-lông/dẻo của anh ta trở nên nhạy cảm với thuốc hoặc trải nghiệm. Độ nhạy cảm thì khác với ngưỡng chịu đựng. Khi ngưỡng chịu đựng tăng, người nghiện ngày càng cần nhiều thuốc hoặc phim porn hơn để có được khoái cảm; khi độ nhạy cảm tăng, anh ta ngày càng ít cần đến chất gây nghiện để thèm muốn nó mãnh liệt. Vì vậy, độ nhạy cảm làm tăng ham MUỐN, mặc dù không nhất thiết phải THÍCH. Chính sự tích tụ của ΔFosB, gây ra do tiếp xúc với một chất gây nghiện hoặc hoạt động gây nghiện, dẫn đến sự nhạy cảm.

Nội dung khiêu dâm gây kích thích hơn là làm thỏa mãn vì chúng ta có hai hệ thống niềm vui riêng biệt trong não bộ, một hệ thống liên quan đến sự kích thích niềm vui/khoái cảm và một hệ thống liên quan đến thỏa mãn niềm vui. Hệ thống kích thích niềm vui liên quan đến niềm vui do “thèm muốn, khao khát” khi chúng ta tưởng tượng về điều gì đó mà mình khao khát, chẳng hạn như tình dục hay một bữa ăn ngon. Hóa chất thần kinh của nó chủ yếu liên quan đến dopamine, và nó làm tăng mức độ căng thẳng của chúng ta.

Hệ thống niềm vui thứ hai liên quan đến sự thỏa mãn, hay niềm vui được đáp ứng, như thực sự được làm tình hay được ăn một bữa cơm, đó là một niềm vui/khoái cảm được thỏa mãn, làm dịu. Hóa chất thần kinh của nó dựa trên sự phóng thích endorphins, có liên quan đến thuốc phiện và đem lại một hạnh phúc bình an, sảng khoái.

Nội dung khiêu dâm cung cấp các chủ đề tình dục vô tận, làm tăng cường hệ thống “thèm muốn, khao khát”. Những người xem phim khiêu dâm phát triển bản đồ mới trong bộ não của họ, dựa trên những bức ảnh và video họ đã xem. Bởi vì đây là một nguyên tắc của bộ não “sử dụng nó hoặc mất nó”, khi chúng ta đã phát triển một khu vực bản đồ, thì chúng ta mong muốn tiếp tục duy trì nó. Giống như cơ bắp của chúng ta trở nên thiếu kiên nhẫn với việc tập thể dục nếu chúng ta thường ngồi ì một chỗ suốt cả ngày, tương tự thế, các giác quan của chúng ta cũng thèm được kích thích.

Những người đàn ông ngồi trước máy tính để xem phim porn cũng giống như những con chuột trong lồng của NIH, nhấn vào nút để nhận được một liều dopamine hoặc phần thưởng tương đương. Mặc dù họ không biết điều đó, nhưng họ đang bị lôi cuốn vào những buổi huấn luyện nội dung khiêu dâm thỏa mọi điều kiện cần thiết cho sự thay đổi tính dẻo của bản đồ não. Vì những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau, những người đàn ông đó đã dành nhiều thời gian thực hành kết nối những hình ảnh porn vào các trung tâm khoái lạc của bộ não, cùng với sự chú ý chăm chú cần thiết cho sự thay đổi tính dẻo. Họ tưởng tượng về những hình ảnh này khi rời máy tính, hoặc trong lúc đang làm tình với bạn gái của họ, đã củng cố chúng. Mỗi lần họ thấy hưng phấn tình dục và đạt cực khoái khi thủ dâm, một liều dopamine, chất dẫn truyền thần kinh tưởng thưởng, đã củng cố những mối liên kết được tạo thành trong bộ não; trong các phiên. Phần thưởng không chỉ tạo thuận lợi cho hành vi; mà nó còn khiến họ không cảm thấy xấu hổ khi mua tạp chí Playboy tại cửa hàng. Đây là một hành vi không có “hình phạt”, mà chỉ có phần thưởng. Những nội dung mà họ thấy kích thích đã thay đổi khi trang web đưa vào những chủ đề và kịch bản porn mới làm thay đổi bộ não của họ mà họ không nhận ra. Bởi vì tính dẻo có sự cạnh tranh, những bản đồ não dành cho các hình ảnh porn kích thích, mới mẻ tăng lên khiến phải hy sinh những thứ trước đây từng thu hút họ—tôi tin rằng đây là lý do họ bắt đầu thấy bạn gái của mình kém hấp dẫn.

Câu chuyện về Sean Thomas, được xuất bản lần đầu trên tờ Spectator của Anh, là một câu chuyện đáng chú ý về một người đàn ông nghiện phim khiêu dâm, và nó làm sáng tỏ cách thức phim khiêu dâm thay đổi bản đồ não và thay đổi thị hiếu tình dục, cũng như vai trò của sự dẻo dai trong giai đoạn quan trọng. Thomas đã viết: “Tôi chưa bao giờ thích xem phim khiêu dâm. Thật vậy, ở tuổi thiếu niên vào những năm bảy mươi, tôi đã từng có một phiên bản Playboy để dưới gối của mình. Nhưng nói chung, tôi thực sự không thích tạp chí khiêu dâm hay phim đen. Tôi thấy chúng tẻ nhạt, lặp đi lặp lại, vô lý và rất xấu hổ khi mua.” Sự nhạt nhẽo của những cảnh phim porn làm anh thấy khó chịu. Nhưng vào năm 2001, ngay sau khi anh ta lên mạng, anh bị tò mò về nội dung khiêu dâm mà mọi người bàn tán trên internet. Nhiều trang được xem miễn phí— những hình ảnh như trêu tức khiến người xem phải mò vào xem những nội dung ‘nóng hơn’. Có một phòng trưng bày ảnh của các cô gái khỏa thân, những kiểu tưởng tượng và hấp dẫn tình dục phổ biến, được thiết kể để nhấn một nút trong não bộ người xem, ngay cả khi anh ta không biết mình có. Có cả hình ảnh của những đồng tính nữ trong bồn mát-xa, phim hoạt hình khiêu dâm, phụ nữ đang hút thuốc trong nhà vệ sinh, tình dục tập thể, và đàn ông xuất tinh lên phụ nữ châu Á đang phục tùng. Hầu hết các bức ảnh đều kể về một câu chuyện.

Thomas đã tìm thấy vài hình ảnh và kịch bản thu hút anh ta, và chúng “lôi kéo tôi quay lại để xem thêm vào ngày tiếp theo. Và tiếp nữa. Và nữa.” Chẳng mấy chốc, anh phát hiện thấy bất kì lúc nào có được một phút rảnh rỗi là anh sẽ “thèm muốn vào xem các trang porn.”

Rồi một ngày nọ, anh tình cờ thấy một trang web có hình ảnh phát vào mông. Anh ngạc nhiên khi thấy mình vô cùng kích thích. Thomas nhanh chóng tìm thấy tất cả các trang web có liên quan đến thể loại phát mông, chẳng hạn như “Trang phát mông của Bernie” và “Hội phát mông.”

“Đây là khoảnh khắc,” anh viết, “mà cơn nghiện đã thực sự xuất hiện. Sở thích của tôi với thể loại porn phát mông khiến tôi tự hỏi: Trong tôi còn ẩn giấu điều gì nữa? Những ngóc ngách bí mật khác cùng những phần thưởng gì tiềm ẩn trong tính dục của tôi mà bây giờ tôi có thể khám phá trong không gian riêng tư tại nhà mình? Hóa ra là có rất nhiều. Tôi khám phá ra một sở thích đặc biệt đối với thể loại đồng tính nữ, phim porn về những người khác chủng tộc, và hình ảnh các cô gái Nhật cởi quần hotpants. Tôi cũng say mê hình những cô nàng chơi bóng rổ không mặc quần lót, những cô gái Nga say rượu khoe thân, và cảnh những nữ diễn viên Đan Mạch ở vị thế phục tùng đang quấn lấy nhau, được cạo lông bởi đối tác nữ kiểm soát khác dưới vòi hoa sen. Nói cách khác, mạng internet đã tiết lộ với tôi rằng tôi có một loạt các tưởng tượng và thói quen kì quặc về tình dục không thể chối cãi và quá trình thỏa mãn những ham muốn đó trên mạng chỉ khiến tôi có nhiều ham muốn hơn.”

Những hình ảnh mà anh thấy thú vị nhưng không hấp dẫn được anh, cho đến khi anh tình cờ nhìn thấy những bức ảnh phát mông, có lẽ vì chúng đã kết nối với một số trải nghiệm thời thơ ấu hoặc tưởng tượng về việc bị trừng phạt. Những tưởng tượng về tình dục của người khác lại làm ta chán ngấy. Trải nghiệm của Thomas giống với một số bệnh nhân của tôi: khi không ý thức được việc họ đang tìm kiếm thứ gì, họ lướt qua hàng trăm bức ảnh và kịch bản cho đến khi họ gặp một tấm ảnh hoặc kịch bản tình dục chạm vào một số chủ đề bị chôn dấu thực sự kích thích họ.

Khi Thomas phát hiện ra hình ảnh đó, anh đã thay đổi. Tấm hình phát mông đó đã thu hút được sự tập trung chú ý của anh, là điều kiện cho sự thay đổi tính dẻo diễn ra. Và không như một phụ nữ ngoài đời thực, những tấm ảnh khiêu dâm đó luôn có sẵn hằng ngày trên máy tính.

Bây giờ Thomas đã bị mắc vào cạm bẫy. Anh cố gắng kiểm soát bản thân nhưng vẫn dành ít nhất 5 tiếng mỗi ngày trên laptop. Anh lén lút lướt web đen, chỉ ngủ 3 tiếng mỗi đêm. Bạn gái anh đã nhận thấy sự mệt mỏi, kiệt quệ ở anh, cô tự hỏi có phải anh đã có người khác rồi không. Anh bị thiếu ngủ đến nỗi ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, và anh mắc phải một loạt bệnh nhiễm trùng buộc phải vào phòng cấp cứu bệnh viện và phải uống thuốc. Anh bắt đầu tìm hiểu đám chiến hữu của mình và thấy nhiều người trong số họ cũng bị cuốn hút vào porn.

Rõ ràng có một thứ gì đó về tình dục của Thomas nằm ngoài nhận thức của anh, đột ngột khởi lên. Có phải mạng internet chỉ đơn giản tiết lộ về một trạng thái tâm lý dị thường, hay là nó cũng góp phần tạo ra chúng? Tôi cho rằng nó tạo ra những tưởng tượng mới từ những khía cạnh tình dục nằm ngoài nhận thức của người lướt web, kết hợp những yếu tố đó lại với nhau để tạo nên những mạng lưới mới. Không thể có chuyện hàng ngàn người đàn ông đã chứng kiến hoặc thậm chí tưởng tượng về cảnh các nữ diễn viên người Đàn Mạch phục tùng để cho các đối tác nữ thống trị cạo lông cho họ dưới vòi hoa sen.

Freud phát hiện ra những tưởng tượng đó kiểm soát tâm trí bởi những yếu tố đặc biệt trong đó. Chẳng hạn, một số đàn ông dị tính hứng thú với những cảnh porn mà ở đó người phụ nữ lớn tuổi, có tính thống trị khơi mào việc giao hợp đồng tính với cô gái trẻ tuổi hơn. Nguyên nhân có thể vì hồi còn nhỏ, những cậu bé thường cảm thấy bị kiểm soát, chế ngự bởi mẹ họ, mẹ họ là “sếp” và được mẹ mặc quần áo, cởi quần áo và giặt chúng. Ở tuổi thơ ấu, một số cậu bé có thể đã trải qua một giai đoạn mà chúng đồng nhất mạnh mẽ với mẹ của chúng và cảm thấy mình “như một bé gái” và hứng thú với tình dục nữ đồng tính của họ về sau này có thể bộc lộ sự đồng nhất hóa với tính nữ còn sót lại trong vô thức của họ.

Nội dung khiêu dâm nặng Hardcore bóc trần một số mạng lưới thần kinh thuở bé được hình thành trong các giai đoạn quan trọng của sự phát triển tính dục và kết nối tất cả những yếu tố từng bị kìm nén, quên lãng này lại với nhau để hình thành một mạng lưới mới, mà ở đó tất cả các đặc điểm được liên kết với nhau. Các trang porn tạo ra một danh mục các thể loại phổ biến và trộn lẫn chúng với nhau thành các bức ảnh. Không sớm thì muộn, người xem web đen sẽ tìm thấy một sự kết hợp chết người chạm vào một loạt nút kích thích tính dục của anh ta ngay lập tức. Sau đó anh ta củng cố mạng lưới bằng việc liên tục xem ảnh porn, thủ dâm, phóng thích dopamine và làm tăng cường các mạng lưới đó. Anh ta đã tạo ra một kiểu “tính dục mới,” một ham muốn tình dục được thiết lập lại có nguồn gốc mạnh mẽ trong những sở thích tình dục bị chôn vùi của anh ta. Vì anh ta thường xuyên phát triển “ngưỡng chịu đựng”, khoái cảm tình dục phải được bổ sung bằng khoái cảm của sự gây hấn, và những tấm ảnh gợi dục và gây hấn hung hăng đang ngày càng pha trộn với nhau— dẫn đến sự gia tăng của các chủ đề thông dâm và ác dâm trong nội dung khiêu dâm nặng.

Các giai đoạn quan trọng đặt nền tảng cho types của chúng ta, nhưng tình yêu ở tuổi thanh niên hoặc sau này mang đến một cơ hội cho một vòng thay đổi tính dẻo lớn thứ hai. Stendhal, tiểu thuyết gia và nhà tiểu luận thế kỷ XIX, hiểu rằng tình yêu có thể dẫn đến những thay đổi triệt để trong sự hấp dẫn. Tình yêu lãng mạn kích hoạt cảm xúc mạnh mẽ đến mức chúng ta có thể tái cấu trúc lại những gì chúng ta thấy hấp dẫn, thậm chí vượt qua cả vẻ đẹp “khách quan”. Trong On Love, Stendhal mô tả về một chàng trai trẻ tên Alberic, người gặp một người phụ nữ xinh đẹp hơn người yêu của anh ta. Nhưng Alberic bị thu hút mạnh mẽ với người yêu của anh hơn là người phụ nữ này vì người yêu của anh hứa hẹn đem lại cho anh nhiều hạnh phúc hơn. Stendhal gọi đây là “Vẻ đẹp bị truất ngôi bởi tình yêu“. Tình yêu có sức mạnh làm thay đổi sự hấp dẫn khiến Alberic bị kích thích trước một khiếm khuyết nhỏ trên gương mặt của người yêu anh, vết sẹo rỗ của cô ấy. Nó kích thích anh vì “anh đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc gắn với sự hiện diện của vết sẹo rỗ đó, những cảm xúc dành cho phần cơ thể tuyệt mỹ nhất và thu hút nhất, bất kể cảm xúc của anh ấy là gì, chúng được làm mới lại với sự sống động khó tin khi thấy dấu hiệu này, ngay cả khi quan sát nó trên khuôn mặt của người phụ nữ khác… trong trường hợp này, xấu xí trở thành xinh đẹp.”

Sự chuyển đổi của thị hiếu có thể xảy ra vì chúng ta không chỉ yêu vì mỗi vẻ ngoài. Trong những tình huống bình thường, nhìn thấy ai đó quyến rũ có thể khiến ta sẵn lòng rơi vào lưới tình của họ, nhưng tính cách của người đó và một loạt những phẩm chất khác, bao gồm khả năng của anh ta khiến chúng ta cảm thấy tốt về bản thân, làm kết tinh quá trình phải lòng nhau. Sau đó tình yêu kích hoạt một trạng thái cảm xúc quá đỗi vui sướng đến nỗi nó có thể khiến cho những vết sẹo rỗ trở nên hấp dẫn, xây dựng lại ý thức thẩm mỹ của chúng ta. Tôi tin đây là cách nó hoạt động.

Năm 1950, “trung tâm khoái cảm” được phát hiện trong hệ thống limbic, một phần của bộ não liên quan nhiều đến việc xử lý cảm xúc. Trong các thí nghiệm của Tiến sĩ Robert Heath trên người – một điện cực được cấy vào vách ngăn của hệ thống limbic và bật lên – những bệnh nhân này đã trải qua một cơn khoái cảm mạnh mẽ đến mức khi các nhà nghiên cứu cố gắng kết thúc thí nghiệm, một bệnh nhân đã nài nỉ họ đừng dừng lại. Vùng vách ngăn cũng bắn điện khi các đối tượng dễ chịu được thảo luận với bệnh nhân và trong khi đạt cực khoái. Những trung tâm khoái cảm này được phát hiện thấy là một phần của hệ thống tưởng thưởng của não bộ, hệ thống dopamine mesolimbic. Năm 1954, James Olds và Peter Milner đã chỉ ra rằng khi họ đưa các điện cực vào trung tâm khoái cảm của động vật trong khi đang dạy nó thực hiện một nhiệm vụ, nó học được dễ dàng hơn bởi vì việc học cảm thấy rất dễ chịu và được phần thưởng.

Khi các trung tâm khoái cảm được bật sáng lên, mọi thứ chúng ta trải nghiệm đều mang lại cho chúng ta niềm vui. Một loại thuốc như cocaine tác động lên chúng ta bằng cách hạ thấp ngưỡng mà trung tâm khoái cảm của chúng ta sẽ sáng lên, giúp chúng dễ dàng bật sáng hơn. Không đơn giản rằng cocaine mang lại cho chúng ta niềm vui. Mà thực tế là các trung tâm khoái cảm của chúng ta bây giờ rất dễ bật lên khiến cho bất cứ điều gì chúng ta trải nghiệm đều thấy tuyệt vời. Không chỉ mỗi cocaine mới có thể hạ thấp ngưỡng mà trung tâm khoái cảm của chúng ta bật sáng. Khi những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực (trước đây gọi là hưng trầm cảm) bắt đầu di chuyển về phía hưng cảm, trung tâm khoái cảm của họ bắt đầu bắn dễ dàng hơn. Và yêu đương cũng làm giảm ngưỡng mà các trung tâm khoái cảm sẽ sáng lên.

Khi một người phê cần, trở nên hưng cảm hoặc rơi vào lưới tình, anh ta đi vào một trạng thái hứng khởi và lạc quan về mọi thứ, vì cả ba điều kiện trên đã hạ thấp ngưỡng bắn của hệ thống khoái cảm, hệ thống dựa trên dopamine gắn liền với sự háo hức mong đợi một thứ gì đó mà chúng ta khao khát. Người nghiện, người hưng cảm và người đang yêu đầy ắp hy vọng và nhạy cảm với bất cứ thứ gì có thể mang lại niềm vui – những bông hoa và không khí trong lành truyền cảm hứng cho họ, và một cử chỉ nhẹ nhàng nhưng chú đáo khiến họ hoan hỉ với cả nhân loại. Tôi gọi quá trình này là “toàn cầu hóa” (globalization).

Toàn cầu hóa trở nên mãnh liệt khi người ta đang yêu và tôi tin rằng đó là một trong những lý do chính khiến tình yêu lãng mạn trở thành một chất xúc tác mạnh mẽ cho sự biến đổi tính dẻo. Vì trung tâm khoái cảm bật lên thoải mái, dễ dàng nên những người đang yêu cuồng say không chỉ yêu người tình của họ mà còn yêu cả thế giới và lãng mạn hóa góc nhìn của anh ta về nó. Bởi vì bộ não của chúng ta đang trải nghiệm sự dâng trào dopamine, giúp củng cố sự thay đổi tính dẻo, nên bất kỳ trải nghiệm và mối liên kết thú vị nào chúng ta có trong giai đoạn ban đầu của tình yêu đều được kết nối vào bộ não của chúng ta.

Toàn cầu hóa không chỉ cho phép chúng ta nhận được nhiều niềm vui từ thế giới mà nó còn khiến chúng ta khó mà cảm nhận được đau đớn, bất mãn hay ác cảm. Heath cho thấy khi trung tâm khoái cảm của chúng ta được bật lên thì những trung tâm của nỗi đau và ác cảm gần đó khó mà sáng lên. Những điều trước kia thường làm ta khó chịu bây giờ đã biến mất. Chúng ta thích trạng thái yêu đương không chỉ vì nó khiến ta dễ hạnh phúc, vui vẻ hơn mà đồng thời cũng khiến chúng ta khó mà đau khổ nổi.

Toàn cầu hóa cũng tạo ra một cơ hội để chúng ta phát triển những thị hiếu mới về những thứ hấp dẫn chúng ta, giống như vết sẹo rỗ đã mang lại khoái cảm cho Alberic. Những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau, và cảm giác vui thích với sự hiện diện của vết sẹo rỗ thường bị cho là không quyến rũ này khiến nó được kết nối vào trong bộ não như một nguồn mang lại khoái cảm. Một cơ chế tương tự xảy ra khi một người nghiện cocaine “đã cai nghiện” đi qua một con hẻm nhỏ nơi lần đầu tiên anh ta dùng thuốc và sự thèm khát ngập tràn trong anh mạnh mẽ đến nỗi anh tìm lại nó. Sự hưng phấn anh ta cảm nhận trong lúc phê thuốc mãnh liệt đến nỗi khiến việc anh đi qua con hẻm xấu xỉ như sự mời gọi, do bởi sự liên kết.

Do đó có một hóa chất tình yêu theo nghĩa đen, và các giai đoạn của sự lãng mạn phản ánh những thay đổi trong bộ não chúng ta không chỉ trong những lúc hưng phấn ngây ngất mà cả những lúc hấp hối của tình yêu. Freud, một trong những người đầu tiên mô tả tác dụng tâm thần của cocaine, và khi còn trẻ, người đầu tiên khám phá ra công dụng y học của nó, đã có cái nhìn thoáng qua về hóa chất này. Viết cho vợ sắp cưới của mình, Martha, vào ngày 2 tháng 2 năm 1886, ông mô tả về việc dùng cocaine trong khi đang viết thư. Vì cocaine tác động lên hệ thống rất nhanh, lá thư, khi mở nó ra, chỉ cho chúng ta thấy một cửa sổ tuyệt vời vào các hiệu ứng của nó. Đầu tiên ông ấy mô tả nó khiến ông trở nên nói nhiều và thú tội như thế nào. Những lời nhận xét tự ti ban đầu của ông biến mất khi tiếp tục đọc thư, và chẳng mấy chốc ông cảm thấy không sợ hãi, đồng nhất với tổ tiên dũng cảm bảo vệ Đền thờ ở Jerusalem của ông. Ông ví khả năng của cocaine trong việc chữa trị sự mệt mỏi của mình với phương thuốc kỳ diệu mà ông có được khi ở bên Martha. Trong một bức thư khác, ông viết rằng cocaine làm giảm sự nhút nhát và trầm cảm, khiến ông hưng phấn, tăng cường năng lượng, lòng tự trọng và sự nhiệt tình và có tác dụng kích thích tình dục. Ông đang mô tả về một trạng thái giống với “sự say men tình” khi người ta cảm thấy hưng phấn, nói chuyện suốt đêm và tăng năng lượng, ham muốn tình dục, lòng tự trọng và sự nhiệt tình, nhưng vì họ nghĩ mọi thứ đều tốt đẹp nên khả năng phán đoán của họ cũng có thể bị suy giảm—tất cả xảy ra nhờ một loại thuốc làm tăng dopamine như cocaine. Chụp fMRI gần đây (hình ảnh cộng hưởng từ chức năng) về những người đang yêu đang nhìn những tấm ảnh người yêu của họ cho thấy một phần não có sự tập trung nhiều dopamine đang được kích hoạt; bộ não của họ trông giống như những người dùng cocaine.

Nhưng nỗi đau của tình yêu cũng có một đặc tính hóa học. Khi xa nhau quá lâu, những người yêu nhau sụp đổ và ‘thiếu thuốc’, khao khát người họ yêu, lo lắng, nghi ngờ bản thân, mất năng lượng và nếu không trầm cảm thì cũng cảm thấy suy sụp. Một sự sửa chữa nhỏ, một lá thư, một email, một tin nhắn điện thoại từ người yêu dấu cung cấp ngay một liều năng lượng. Nếu họ chia tay, họ sẽ bị trầm cảm— điều ngược lại với sự hưng phấn cao độ. “Những triệu chứng gây nghiện” này- hưng phấn, sụp đổ, những thèm khát, ‘thiếu thuốc’, và sửa chữa— là những dấu hiệu chủ quan của sự thay đổi tính dẻo đang diễn ra trong cấu trúc não bộ của chúng ta, khi họ thích nghi với sự hiện diện hoặc vắng mặt của người yêu.

Một ngưỡng chịu đựng, giống với ngưỡng chịu đựng chất gây nghiện, có thể phát triển ở những cặp đôi đang hạnh phúc khi họ trở nên quen thuộc với nhau. Dopamine thích sự mới lạ. Khi một đôi vợ chồng phát triển ngưỡng chịu đựng lẫn nhau và mất đi sự lãng mạn cao độ mà họ từng có, sự thay đổi có thể là một dấu hiệu, chẳng phải vì họ tẻ nhạt hay khiếm khuyết, nhưng bộ não ni-lông của họ đã thích nghi với nhau đến mức rất khó để họ tìm lại cảm giác say mê phấn chấn từng có về nhau.

May mắn thay, những người yêu nhau có thể kích thích dopamine của họ, giữ được sự hưng phấn, bằng cách đưa sự mới lạ vào mối quan hệ của họ. Khi một cặp vợ chồng có kỳ nghỉ lãng mạn bên nhau hoặc thử các hoạt động mới cùng nhau, hoặc mặc kiểu quần áo mới hoặc gây bất ngờ cho nhau, họ đang sử dụng sự mới lạ để bật trung tâm khoái cảm lên, để mọi thứ mà họ trải nghiệm, kể cả trải nghiệm ở bên nhau, gây phấn khích và thỏa mãn cho họ. Một khi trung tâm khoái lạc bật lên và sự toàn cầu hóa bắt đầu, hình ảnh mới của người yêu lại gắn với những niềm vui bất ngờ và được kết nối vào bộ não (bộ não được tiến hóa để đáp ứng trước sự mới lạ). Chúng ta phải học hỏi những điều mới nếu ta muốn cảm thấy mình đang tràn đầy sức sống, và khi cuộc sống, hoặc tình yêu, trở nên quá dễ đoán và dường như không còn gì để học, chúng ta trở nên bứt rứt – có thể đó là một sự phản kháng của bộ não ni-lông khi nó không còn thực hiện được những nhiệm vụ thiết yếu của nó nữa.

Tình yêu tạo ra một trạng thái tinh thần hào phóng. Bởi vì tình yêu cho phép chúng ta trải nghiệm những tình huống hay vẻ ngoài cơ thể là thú vị mà bình thường ta không có cảm giác, nó cũng cho phép chúng ta gỡ bỏ những liên kết tiêu cực, một hiện tượng khác của tính dẻo.

Khoa học của sự gỡ bỏ, quên đi là một thứ rất mới mẻ. Vì tính dẻo có sự cạnh tranh, khi một người phát triển một mạng lưới thần kinh thì nó trở nên hiệu quả và tự duy trì, và giống như một thói quen, rất khó để gỡ bỏ nó. Hãy nhớ lại ở chương trước Merzenich đang tìm kiếm “một cục tẩy” để giúp ông ấy tăng tốc độ thay đổi và gỡ bỏ những thói quen xấu.

Có nhiều hóa chất khác nhau liên quan đến việc học hơn là loại bỏ (thói quen). Khi chúng ta học một điều mới mẻ, những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau, và một quá trình hóa học xảy ra ở cấp độ tế bào thần kinh gọi là “tiềm năng dài hạn,” hay LTP, giúp tăng cường các kết nối giữa các tế bào thần kinh. Khi bộ não gỡ bỏ những kết nối hoặc ngắt kết nối giữa các nơ-ron, một quá trình hóa học khác xảy ra được gọi là “giảm sút dài hạn,” hay LTD (Quá trình này không liên quan gì đến trạng thái bệnh trầm cảm). Việc gỡ bỏ và làm suy yếu các kết nối giữa các nơ-ron cũng là một quá trình của tính dẻo, nó cũng quan trọng như việc học hỏi và tăng cường chúng. Nếu chúng ta chỉ tăng cường kết nối, mạng lưới thần kinh của chúng ta sẽ bị bão hòa/ngập tràn. Bằng chứng cho thấy việc quên đi những ký ức hiện có là cần thiết để nhường chỗ cho những ký ức mới trong mạng lưới của chúng ta.

Sự gỡ bỏ/quên đi là điều thiết yếu khi chúng ta chuyển từ một giai đoạn phát triển này sang giai đoạn tiếp theo. Chẳng hạn, khi đến cuối tuổi thiếu niên, một cô gái rời nhà đi học đại học ở một tiểu bang khác, cả cô và cha mẹ đều trải qua sự đau buồn và thay đổi lớn về tính dẻo, khi họ thay đổi những thói quen cảm xúc, lề thói và hình ảnh bản thân cũ.

Lần đầu tiên biết yêu cũng đồng nghĩa với bước vào một giai đoạn phát triển mới và đòi hỏi rất nhiều sự quên đi/gạt bỏ. Khi người ta cam kết với nhau, họ phải thay đổi hoàn toàn những ý định hiện tại và thường là những ý định ích kỷ, và điều chỉnh lại tất cả những mối gắn bó khác, để hợp nhất người yêu mới vào cuộc đời họ. Cuộc sống hiện tại bao gồm sự hợp tác liên tục, đòi hỏi tái tổ chức lại tính dẻo của các trung tâm não bộ xử lý cảm xúc, tính dục và bản thân. Hàng triệu mạng lưới thần kinh phải bị xóa sạch và thay thế bằng những mạng lưới mới—một lý do khiến việc yêu ai đó-đối với nhiều người-có cảm giác như đánh mất bản sắc cá nhân. Phải lòng một ai đó cũng đồng nghĩa với việc quên đi một tình yêu trong quá khứ; điều này cũng đòi hỏi sự quên đi ở cấp độ thần kinh.

Trái tim một người đàn ông tan vỡ bởi tình yêu đầu tiên của anh ta hủy hôn ước. Anh gặp nhiều phụ nữ, nhưng họ đều lu mờ khi so với vị hôn thê của anh, người mà anh tin là tình yêu đích thực duy nhất của mình và bị ám ảnh bởi hình bóng cô ấy. Anh không thể gỡ bỏ được sự thu hút trước tình yêu đầu tiên của anh. Hay như một phụ nữ đã kết hôn cách đây 20 năm nay trở thành một góa phụ trẻ và từ chối hẹn hò lại. Cô ấy không thể tưởng tượng được rằng mình sẽ yêu đương trở lại, và cái ý nghĩ “thay thế” chồng cô là một sự xúc phạm với cô. Năm tháng trôi qua, và bạn bè đã khuyên cô đến lúc đi bước nữa, nhưng đều vô ích.

Thường thì những người như vậy không thể đi bước nữa vì họ không thể thôi đau buồn; cái ý nghĩ sống mà không có người họ yêu đau đớn đến nỗi không chịu đựng được. Theo thuật ngữ Tính dẻo thần kinh, nếu người yêu lãng mạn hay góa phụ muốn bắt đầu một mối quan hệ tình cảm mới mà không để lại gánh nặng thì trước tiên mỗi người phải điều chỉnh lại hàng tỷ kết nối trong bộ não của họ. Freud lưu ý rằng việc đoạn tang là quá trình diễn ra dần dần; dù thực tế bảo ta rằng người mình yêu đã đi rồi, thì “mệnh lệnh của nó cũng không được tuân theo ngay tức khắc.” Chúng ta tiếc thương bằng cách mỗi lúc nhớ lại một ký ức, làm sống lại nó và sau đó buông bỏ nó. Ở cấp độ não bộ, chúng ta đang bật lên từng mạng lưới thần kinh từng liên kết với nhau để tạo nên nhận thức của chúng ta về người đó, trải nghiệm ký ức một cách sống động về họ, sau đó chào tạm biệt từng mạng lưới một. Trong quá trình thương tiếc, chúng ta học cách sống mà không có người mình yêu, nhưng lý do khiến bài học này khó học là vì đầu tiên chúng ta phải gạt bỏ được ý nghĩ rằng người đó còn sống và vẫn có thể dựa vào họ.

Walter J. Freeman, giáo sư khoa học thần kinh tại Berkeley, là người đầu tiên tạo ra mối liên hệ giữa tình yêu và sự quên đi rất nhiều. Ông đã tập hợp một số sự kiện sinh học hấp dẫn để đi đến kết luận rằng sự tái tổ chức nơ-ron thần kinh lớn xảy ra ở hai giai đoạn cuộc sống: khi chúng ta yêu nhau và khi chúng ta bắt đầu nuôi dạy con cái. Freeman cho rằng việc tái tổ chức bộ não ni-lông—nhiều hơn hẳn trong việc học tập hay quên đi bình thường— trở nên khả thi nhờ một chất điều biến thần kinh (Neuromodulators).

Chất điều biến thần kinh khác với chất dẫn truyền thần kinh. Trong khi các chất điều biến thần kinh được giải phóng trong các khớp thần kinh để kích thích hoặc ức chế tế bào thần kinh, thì các chất điều biến thần kinh tăng cường hoặc làm giảm hiệu quả tổng thể của các kết nối synap và mang lại sự thay đổi lâu dài. Freeman tin rằng khi chúng ta yêu nhau, chất điều biến thần kinh não oxytocin được giải phóng, cho phép các kết nối thần kinh hiện tại tiêu biến đi để những thay đổi trên quy mô lớn có thể xảy ra.

Oxytocin đôi khi được gọi là chất điều biến thần kinh cam kết vì nó củng cố sự gắn bó ở các động vật có vú. Nó được phóng thích khi những người yêu nhau gắn kết và làm tình— ở con người oxytocin được giải phóng ở cả hai giới trong lúc đạt được cực khoái—và khi cặp vợ chồng nuôi dạy con cái. Ở phụ nữ oxytocin được giải phóng trong quá trình chuyển dạ và cho con bú. Một nghiên cứu fMRI cho thấy khi các bà mẹ nhìn vào những bức ảnh của con mình, vùng não giàu oxytocin được kích hoạt. Ở động vật có vú đực, một chất điều biến thần kinh có liên quan chặt chẽ được gọi là vasopressin được giải phóng khi chúng trở thành cha. Nhiều người trẻ nghi ngờ rằng họ sẽ có thể gánh được các trách nhiệm của việc nuôi dạy con cái không ý thức được rằng mức độ oxytocin có thể thay đổi bộ não của họ, cho phép họ vượt qua khó khăn trong việc làm cha.

Các nghiên cứu về một loài động vật theo chế độ ‘một vợ một chồng’ được gọi là chuột đồng cỏ đã chỉ ra rằng oxytocin, thường được giải phóng trong não của chúng trong quá trình giao phối, khiến chúng kết đôi với nhau suốt đời. Nếu một con chuột cái được tiêm oxytocin vào não, nó sẽ kết đôi suốt đời với một con chuột đực gần đó. Nếu một con chuột đực được tiêm vasopressin, nó sẽ âu yếm với một con cái gần đó. Oxytocin dường như cũng gắn kết trẻ em với cha mẹ và các tế bào thần kinh kiểm soát sự bài tiết của nó có thể có một giai đoạn quan trọng của riêng chúng. Trẻ em được nuôi dưỡng trong trại trẻ mồ côi mà không có sự tiếp xúc yêu thương thường gặp vấn đề về gắn kết khi lớn tuổi. Nồng độ oxytocin của chúng vẫn ở mức thấp trong vài năm sau khi được các gia đình yêu thương nhận nuôi

Trong khi dopamine gây hưng phấn, đưa chúng ta vào trạng thái ngất ngây và kích thích hưng phấn tình dục, thì oxytocin tạo ra một tâm trạng bình tĩnh, ấm áp làm tăng cảm giác dịu dàng và gắn bó và có thể khiến chúng ta giảm sự cảnh giác. Một nghiên cứu gần đây cho thấy oxytocin cũng kích hoạt lòng tin. Khi mọi người ngửi oxytocin và sau đó tham gia vào một trò chơi tài chính, họ có xu hướng tin tưởng người khác bằng tiền của họ. Mặc dù vẫn còn nhiều nghiên cứu phải làm đối với oxytocin ở người, nhưng bằng chứng cho thấy tác dụng của nó tương tự như ở chuột đồng cỏ: nó khiến chúng ta cam kết với bạn đời và tận tụy với con cái chúng ta.

Nhưng oxytocin hoạt động theo một cách độc đáo, liên quan đến việc gạt bỏ. Ở cừu, oxytocin được giải phóng trong khứu giác, một phần của não bộ liên quan đến nhận thức mùi, với mỗi lứa mới. Cừu và nhiều động vật khác gắn kết với nhau, hoặc “in dấu” lên con của chúng bằng mùi hương. Chúng chỉ chăm sóc con của mình và từ chối những con cừu xa lạ.

Nhưng nếu oxytocin được tiêm vào cừu mẹ khi tiếp xúc với một con cừu lạ, cừu cái ấy cũng sẽ chăm sóc, nuôi nấng con cừu lạ.

Tuy nhiên, Oxytocin không được phóng thích với lứa đầu tiên—mà chỉ phóng thích với những lứa sau— cho thấy oxytocin đóng vai trò xóa sạch các mạch thần kinh gắn kết người mẹ với lứa đầu tiên, dể cô ấy có thể gắn kết với lứa con thứ hai của cô. (Freeman ngờ rằng người mẹ gắn kết với lứa đầu tiên của mình bằng cách sử dụng các chất hóa học thần kinh khác.) Khả năng xóa sạch hành vi đã học của oxytocin đã khiến các nhà khoa học gọi đó là hoóc môn làm quên đi/mất trí nhớ. Freeman cho rằng oxytocin làm tan biến những kết nối thần kinh đang tồn tại làm nằm bên dưới những mối gắn bó đang có, để cho những mối gắn bó mới có thể hình thành. Theo lý thuyết này, Oxytocin không dạy cho các bậc cha mẹ cách làm cha mẹ, cũng như nó không làm cho những người yêu nhau hợp tác và tử tế với nhau; đúng hơn là, nó tạo ra khả năng cho họ học những khuôn mẫu mới.

Có một số tranh cãi về ý kiến ​​cho rằng oxytocin chỉ chịu trách nhiệm cho đợt học tập mới này. Đối với những thay đổi trong mối gắn bó hiện tại của chúng ta, hoặc cách nó tạo điều kiện cho những thay đổi này, nhà thần kinh học Zarc Pansckip lập luận rằng oxytocin và sự kết hợp với những hóa chất não bộ khác tích cực làm giảm cảm giác đau khổ do chia ly của chúng ta, khiến nỗi đau của sự đánh mất mối gắn bó trước trở nên ít sâu sắc hơn. Bớt khổ sở hơn cũng giúp chúng ta dễ dàng học được những điều mới mẻ, và hình thành những mối quan hệ mới, đồng thời điều chỉnh lại phần nào mối quan hệ hiện tại của chúng ta.

Lý thuyết của Freeman giúp giải thích tình yêu và tính dẻo ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào. Tính dẻo cho phép chúng ta phát triển bộ não rất độc đáo – để đáp ứng trước những trải nghiệm cuộc sống cá nhân của chúng ta – rằng thường khó nhìn thế giới như cách của người khác, muốn những gì họ muốn, hoặc hợp tác. Nhưng sự sinh sản thành công của loài người đòi hỏi sự hợp tác với nhau. Những gì tự nhiên mang lại, trong một chất điều biến thần kinh như oxytocin, là khả năng để hai bộ não đang yêu trải qua một giai đoạn tính dẻo tăng cao, cho phép họ thay đổi để hòa hợp với nhau và định hình những ý định và nhận thức của nhau. Theo Freeman bộ não về cơ bản là một cơ quan xã hội hóa và do đó phải có một cơ chế, theo thời gian sẽ xóa bỏ xu hướng quá cá nhân, quá chú trọng bản thân và quá ích kỷ của chúng ta.

Như Freeman nói, “Ý nghĩa sâu sắc nhất của trải nghiệm tình dục không nằm ở khoái cảm, hay thậm chí chuyện sinh sản, mà nằm ở cơ hội nó mang đến để vượt sự duy ngã (đề cao bản thân). Chính lúc sau khi làm tình xong, chứ không phải khúc dạo đầu, có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng lòng tin.”

Khái niệm của Freeman nhắc nhở chúng ta về nhiều biến thể của tình yêu: người đàn ông bất an nhanh chóng rời bỏ người phụ nữ sau khi làm tình suốt đêm, vì anh ta sợ bị tác động quá mức bởi cô ấy nếu anh ở lại đến sáng; phụ nữ có xu hướng yêu người mà cô ấy đã có quan hệ tình dục. Hoặc sự thay đổi bất ngờ ở người đàn ông hầu như ít chú ý đến trẻ con bỗng trở thành một người cha tận tụy; chúng ta cho rằng “anh ấy đã trưởng thành” và “những đứa trẻ được đặt lên hàng đầu,” nhưng anh ta có thể đã nhận được sự trợ giúp từ oxytocin, cho phép anh ta vượt qua những mối bận tâm ích kỷ sâu sắc của mình.

Sự quên đi trong tình yêu cho phép chúng ta thay đổi hình ảnh bản thân mình—trở nên tốt hơn, nếu chúng ta có một đối tác đáng yêu. Nhưng nó cũng giúp giải thích cho tính dễ bị tổn thương của chúng ta khi yêu và giải thích tại sao có rất nhiều đàn ông và phụ nữ trẻ tự tin, khi yêu một người có tính cách thao túng, khinh miệt, thường đánh mất hết cảm giác về bản thân và trở nên hoài nghi bản thân mình, từ đó có thể mất nhiều năm để phục hồi.

Hiểu được sự quên/gỡ bỏ, và một số điểm tốt về tính dẻo não bộ, hóa ra lại quan trọng trong việc điều trị bệnh nhân của tôi, anh A. Vào khoảng thời gian A. học đại học, anh thấy bản thân lặp lại trải nghiệm của giai đoạn-quan trọng của anh và bị thu hút trước những phụ nữ bất ổn về cảm xúc, đã có bạn trai, rất giống với mẹ anh, cảm thấy mình có trách nhiệm yêu thương và giải cứu họ. A. bị mắc kẹt vào hai cái bẫy của tính dẻo.

Cái bẫy đầu tiên là một mối quan hệ với một người phụ nữ ổn định, chu đáo có thể giúp anh gỡ bỏ tình cảm đối với những phụ nữ có vấn đề, và dạy anh một con đường mới để yêu thương, đơn giản lại không làm anh có cảm xúc, dù anh rất muốn. Vì vậy anh bị mắc kẹt với kiểu thu hút tiêu cực, hủy hoại được hình thành trong giai đoạn-quan trọng của anh.

Cãi bẫy thứ hai của anh có thể hiểu được về mặt tính dẻo. Một trong những triệu chứng dằn vặt anh nhất đó là sự hợp nhất giữa tình dục với sự xung hấn trong tâm trí anh. Anh cảm thấy yêu một người tức là tàn phá, ăn tươi nuốt sống cô ấy, và được yêu tức là bị ăn tươi nuốt sống. Và cảm giác quan hệ tình dục của anh là một hành động bạo lực khiến anh rất khó chịu những cũng rất kích thích. Những ý nghĩ về tình dục ngay lập tức dẫn đến những ý nghĩ về bạo lực, và ngược lại, ý nghĩ về bạo lực đưa đến ý nghĩ về tình dục.

Khi anh làm tình giỏi, anh cảm thấy mình là một người nguy hiểm. Như thể anh ta thiếu bản đồ não riêng biệt cho cảm giác tình dục và bạo lực.

Merzenich đã mô tả một số “cạm bẫy của bộ não” xảy ra khi hai bản đồ não đáng lẽ nên tách biệt thì lại hợp nhất với nhau. Như chúng ta đã thấy, ông phát hiện ra nếu các ngón tay của một con khỉ được khâu lại với nhau và buộc phải di chuyển cùng một lúc, các bản đồ não cho chúng sẽ hợp nhất, bởi vì những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau. Nhưng ông cũng phát hiện ra các bản đồ hợp nhất trong cuộc sống hàng ngày. Khi một nhạc sĩ thường xuyên sử dụng hai ngón tay với nhau đủ nhiều trong khi chơi một nhạc cụ, thì bản đồ não cho hai ngón tay đôi khi hợp nhất lại và khi nhạc sĩ cố gắng di chuyển chỉ một ngón tay thì ngón kia cũng di chuyển theo. Các bản đồ não cho hai ngón tay khác nhau bây giờ không còn được phân hó nữa. Nhạc sĩ càng cố gắng tạo ra một chuyển động đơn lẻ, anh ta sẽ càng di chuyển cả hai ngón tay, củng cố bản đồ não đã hợp nhất hai ngón tay đó. Một người càng cố gắng thoát khỏi cái bẫy của bộ não thì anh ta càng lún sâu vào, phát triển một tình trạng được gọi là “loạn trương lực cơ khu trú“. Một cái bẫy não bộ tương tự xảy ra ở những người Nhật Bản, khi nói tiếng Anh, không thể nghe được sự khác biệt giữa r và l vì hai âm thanh không được phân biệt trong bản đồ não của họ. Mỗi lần họ cố gắng nói đúng âm thanh, họ sẽ nói sai, củng cố thêm vấn đề.

Đây là những gì tôi tin rằng A. đang trải nghiệm. Mỗi lần anh ta nghĩ về tình dục, anh sẽ nghĩ đến bạo lực. Mỗi lần anh ta nghĩ về bạo lực, anh ta sẽ nghĩ đến tình dục, tăng cường mối liên kết trong bản đồ não đã hợp nhất.

Đồng nghiệp của Merzenich, bà Nancy Byl, người làm việc trong ngành y học vật lý, dạy cho những người không thể điều khiển ngón tay để phân định lại bản đồ các ngón tay của họ. Bí quyết không phải là cố gắng cử động các ngón tay một cách riêng biệt, mà là học lại cách sử dụng tay theo cách họ đã làm khi còn bé. Ví dụ, khi điều trị cho các nghệ sĩ guitar mắc chứng loạn trương lực cơ khu trú, đã mất kiểm soát ngón tay, trước tiên, bà hướng dẫn họ ngừng chơi guitar một thời gian để làm suy yếu bản đồ não đã hợp nhất. Sau đó, họ chỉ giữ một cây ghita đã tháo dây trong vài ngày. Sau đó một dây đàn tạo ra cảm giác khác biệt so với dây đàn ghita bình thường được gắn vào cây ghita, và họ cảm nhận nó thật cẩn thận, nhưng chỉ với một ngón tay. Cuối cùng họ sử dụng một ngón tay thứ hai cho một dây đàn riêng biệt. Cuối cùng, bản đồ não hợp nhất cho các ngón tay của họ tách thành hai bản đồ riêng biệt và họ có thể chơi lại.

A. bắt đầu làm phân tâm học. Chúng tôi đã sớm phát hiện ra lý do tại sao ở anh tình yêu và sự xung hấn lại hợp nhất, lần theo dấu vết của cạm bẫy não bộ đến trải nghiệm của anh với bà mẹ say xỉn. Mẹ anh thường xuyên bộc lộ những cảm xúc tính dục và bạo lực cùng một lúc. Nhưng khi anh ấy vẫn không thể thay đổi được điều thu hút anh, tôi đã làm một việc tương tự như Merzenich và Byl đã làm để phân định lại bản đồ não. Trong khoảng thời gian trị liệu kéo dài, bất cứ khi nào A. bộc lộ sự dịu dàng về thể lý nào ngoài tình dục không bạo lực, tôi chỉ ra và yêu cầu anh quan sát kỹ, nhắc nhở rằng anh có khả năng cảm nhận tích cực và khả năng thân mật.

Khi những ý nghĩ bạo lực xuất hiện, tôi yêu cầu anh ấy tìm kiếm trong bộ kinh nghiệm của mình để tìm kiếm dù chỉ một ví dụ cho thấy sự hung hang gây hấn hay bạo lực không dính tới chuyện tình dục là đáng khen, ví dụ như sự tự vệ chính đáng. Bất cứ khi nào những khu vực này xuất hiện— một hành động dịu dàng, hay sự gây hấn không mang tính tiêu cực, hủy hoại— tôi yêu cầu anh chú ý đến chúng. Thời gian trôi qua, anh ấy có thể hình thành hai bản đồ não riêng biệt, một cho sự dịu dàng thể lý, không liên quan đến sự quyến rũ mà anh cảm nhận với mẹ, và bản đồ khác cho sự xung hấn-bao gồm cảm sự quyết đoán lành mạnh— khác hẳn với sự bạo lực điên rồ mà anh cảm nhận khi mẹ mình say xỉn.

Tách biệt tình dục và bạo lực trong bản đồ não bộ cho phép anh ấy cảm thấy tốt hơn về các mối quan hệ và tình dục, và sự tiến bộ theo các giai đoạn. Dù anh ấy không thể ngay lập tức yêu hoặc hứng thú với một phụ nữ lành mạnh, anh đã yêu một phụ nữ lành mạnh hơn một chút so với những cô bạn gái cũ của anh và anh được hưởng lợi từ việc học hỏi mẫu tình yêu mới và gỡ bỏ mẫu tình yêu quá khứ. Trải nghiệm này cho phép anh dần dần bước vào những mối quan hệ lành mạnh hơn, và gạt bỏ những mối quan hệ độc hại. Đến khi kết thúc trị liệu, anh đang có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, lành mạnh và thỏa mãn; tính cách của anh, kiểu tình dục của anh đã biến đổi hoàn toàn.

Việc điều chỉnh lại hệ thống khoái lạc của chúng ta, và mức độ thị hiếu tình dục của chúng ta có thể học được, có thể thấy rõ nhất ở những chứng biến thái tình dục như chứng khổ dâm, biến đau đớn thể xác thành khoái cảm tình dục. Để làm điều này, bộ não phải biến những thứ vốn dĩ khó chịu trở nên dễ chịu, và các xung điện thường kích hoạt hệ thống đau đớn của chúng ta được kết nối lại vào hệ thống khoái cảm của chúng ta.

Cuộc đời của những người có hành vi biến thái tình dục thường xoay quanh những hoạt động pha trộn giữa tính dục và sự xung hấn, và họ thường tán dương và tôn sùng sự nhục nhã, thù hận, thách thức, cấm đoán, giận dữ, tội lỗi nham hiểm và phá vỡ những điều cấm kị; họ cảm thấy mình đặc biệt chỉ đơn giản vì họ không sống “bình thường.” Những thái độ “ngang ngược” hoặc thách thức này rất cần thiết cho việc hưởng thụ sự đồi trụy. Việc lý tưởng hóa sự đồi trụy và đánh giá thấp sự “bình thường” được viết một cách xuất sắc trong tiểu thuyết Lolita của Vladimir Nabokov, trong đó một người đàn ông trung niên thần tượng và quan hệ tình dục với một cô gái chưa dậy thì mới 12 tuổi, đồng thời tỏ ra khinh miệt tất cả những người phụ nữ lớn tuổi.

Chủ nghĩa bạo dâm mô tả về tính dẻo ở chỗ nó hợp nhất hai xu hướng quen thuộc là tình dục và sự xung hấn, mỗi yếu tố có thể mang lại khoái cảm riêng biệt và kết hợp chúng lại với nhau để khi chúng được giải phóng thì khoái cảm sẽ nhân đôi. Nhưng khổ dâm (masochism) còn đi xa hơn bởi vì nó mang một thứ gì đó vốn đã khó chịu, đau đớn và biến nó thành một niềm vui, làm thay đổi ham muốn tình dục một cách cơ bản và chứng minh một cách sống động về tính dẻo của hệ thống khoái cảm và đau đớn của chúng ta.

Trong nhiều năm, cảnh sát, thông qua các cuộc tấn công vào các cơ sở S&M, đã biết nhiều hơn về những sai lầm nghiêm trọng hơn hầu hết các bác sĩ lâm sàng. Mặc dù những bệnh nhân mắc chứng biến thái tình dục nhẹ thường tìm kiếm sự điều trị cho các vấn đề như lo lắng hoặc trầm cảm, nhưng những người mắc biến thái tình dục nghiêm trọng hiếm khi tìm kiếm liệu pháp điều trị bởi vì, nói chung, họ thích chúng.

Robert Stoller, M.D., một nhà phân tâm học ở California, đã thực hiện những khám phá quan trọng thông qua các chuyến thăm đến các cơ sở S&M và B&D (sự ràng buộc và kỷ luật) ở Los Angeles. Ông đã phỏng vấn những người mắc chứng loạn dâm gây đau nghiêm trọng (sadomasochism), gây đau đớn cho thể xác, và phát hiện ra tất cả những người mắc loạn dâm gây đau đều mắc bệnh nghiêm trọng khi còn nhỏ và phải trải qua việc điều trị y tế đau đớn, thường xuyên. “Kết quả là,” Stoller viết, “họ bị nhốt trong bệnh viện một thời gian dài mà không có cơ hội để trút bỏ sự thất vọng, tuyệt vọng và giận dữ một cách công khai và thích hợp. Dẫn đến những biến thái tình dục.” Khi còn nhỏ, họ làm sống lại những cơn đau, cơn thịnh nộ không thể biểu đạt trong các giấc mơ, trong những trạng thái tâm lý được thay đổi hoặc trong tưởng tượng thủ dâm, để họ có thể kể lại câu chuyện về tổn thương tâm lý với một cái kết hạnh phúc và nói với bản thân, Lần này, tôi sẽ chiến thắng. Và cách họ giành chiến thắng là dâm dục hóa nỗi thống khổ của họ. Quan điểm cho rằng một cảm xúc vốn đau đớn có thể trở nên vui sướng thoạt đầu khiến chúng ta thấy khó tin, vì chúng ta có xu hướng cho rằng mỗi cảm giác và cảm xúc của chúng ta về bản chất hoặc là vui sướng (niềm vui, chiến thắng và khoái cảm tình dục) hoặc đau đớn (nỗi buồn, sợ hãi và thương tiếc). Nhưng trên thực tế, giả định này là không đúng. Chúng ta có thể khóc những giọt nước mắt hạnh phúc và có những chiến thắng cay đắng; và ở những người bị loạn thần, họ có thể cảm thấy tội lỗi về khoái cảm tình dục hoặc hoàn toàn không có khoái cảm, trong khi những người bình thường khác sẽ cảm thấy thích thú. Một cảm xúc mà chúng ta cho là vốn khó ưa, chẳng hạn sự buồn bã, có thể được thể hiện một cách tinh tế và đẹp đẽ trong âm nhạc, văn chương hoặc nghệ thuật, nỗi buồn không chỉ có cảm giác sâu sắc mà còn cao quý. Nỗi sợ hãi có thể thú vị trong những bộ phim kinh dị hoặc trên tàu lượn siêu tốc. Bộ não con người dường như có thể gắn kết nhiều cảm xúc và cảm giác của chúng ta với hệ thống khoái cảm hoặc hệ thống đau đớn, và mỗi gắn kết hoặc liên kết tinh thần này đòi hỏi một sự kết nối tính dẻo mới trong não.

Những người khổ dâm nặng mà Stoller phỏng vấn chắc chắn đã tạo nên một con đường mòn thần kinh liên kết những cảm giác đau đớn họ từng chịu đựng với hệ thống khoái cảm tình dục của họ, kết quả là tạo thành một trải nghiệm tổng hợp mới, nỗi đau gây khoái lạc. Những khổ đau mà bọn họ trải qua thời thơ ấu cho thấy sự điều chỉnh này xảy ra trong giai đoạn quan trọng của tính dẻo dai về tính dục.

Năm 1997, một bộ phim tài liệu đã làm sáng tỏ về tính dẻo và chứng khổ dâm: Sick:The Life and Death của Bob Flanagan, một người siêu khổ dâm. Bob Flanagan đã thực hiện các hành vi bạo dâm của mình trước công chúng như một nghệ sĩ biểu diễn và người phô bày thân thể đã được thể hiện một cách rõ ràng, thi vị và đôi lúc rất khôi hài. Trong những cảnh mở đầu của Flanagan, chúng ta thấy anh ta trần truồng, nhục nhã, bị ném bánh vào mặt, được cho ăn bằng một cái phễu. Nhưng những hình ảnh cho thấy anh bị tổn thương về thể xác và khó thở, ám chỉ những hình thức gây đau đớn đáng lo ngại hơn nhiều.

Bob Flanagan

Bob sinh năm 1952 bị xơ nang, một căn bệnh của phổi và tuyến tụy do di truyền, trong đó cơ thể sản xuất quá nhiều chất nhầy dày bất thường làm tắc nghẽn đường dẫn khí, khiến anh ta không thể thở một cách bình thường và dẫn đến các vấn đề tiêu hóa mãn tính. Anh phải chiến đấu trong từng hơi thở và người thường chuyển thành màu xanh do thiếu oxy. Đa số bệnh nhân sinh ra với căn bệnh này đều chết khi còn nhỏ hoặc ở tuổi đôi mươi.

Cha mẹ của Bob nhận thấy anh vẫn đau đớn từ lúc xuất viện về nhà. Khi anh mười tám tháng tuổi, các bác sĩ đã phát hiện ra mủ giữa phổi và bắt đầu điều trị cho anh bằng cách nhét kim vào sâu trong ngực anh. Anh bắt đầu sợ quá trình chữa trị này và hét lên tuyệt vọng. Trong suốt thời thơ ấu, anh phải thường xuyên nhập viện và bị giam cầm gần như trần truồng trong một cái lều bong bóng để các bác sĩ có thể theo dõi mồ hôi của anh – một trong những cách chẩn đoán bệnh xơ nang – trong khi anh cảm thấy cơ thể mình bị người lạ nhìn thấy. Để giúp anh ta thở và chống lại nhiễm trùng, các bác sĩ đã chèn tất cả các loại ống vào người anh. Anh cũng nhận thức được mức độ nghiêm trọng của vấn đề của mình: hai trong số các em gái của anh cũng bị xơ nang; một người chết lúc sáu tháng, người kia lúc hai mươi mốt tuổi.

Dù trên thực tế anh đã trở thành cậu bé được đăng trên poster của Hiệp hội Xơ nang quận Cam, anh đã bắt đầu sống cuộc đời bí mật. Khi còn nhỏ, khi dạ dày đau không ngừng, anh sẽ kích thích dương vật của mình để đánh lạc hướng bản thân. Khi còn học cấp ba, anh sẽ nằm trần truồng vào ban đêm và che phủ mình bằng keo dày, anh không biết tại sao. Anh ta treo mình ở cửa bằng thắt lưng ở vị trí gây đau đớn. Sau đó, anh ta bắt đầu nhét kim vào thắt lưng để đâm vào da thịt mình.

Khi anh ba mươi mốt tuổi, anh yêu Sheree Rose, xuất thân từ một gia đình rất phức tạp. Trong phim, chúng ta thấy mẹ của Sheree khinh chồng mình ra mặt, cha của Sheree, người mà Sheree chê là người thụ động và không bao giờ bày tỏ tình cảm của mình. Sheree tự nhận mình là hống hách từ nhỏ. Cô ta là kẻ bạo dâm của Bob.

Trong phim Sheree đối xử với Bob (với sự cho phép của anh) như nô lệ của cô ta. Cô làm nhục anh ta, cắt vào da gần núm vú của anh ta bằng con dao X-Acto, ép anh ăn, bóp cổ anh bằng sợi dây cho đến khi mặt anh chuyển thành màu xanh, nhét một quả bóng bằng thép to như quả bóng bida vào hậu môn anh, đặt cây kim khâu vào vùng kích dục của anh. Môi và miệng anh bị khâu kín. Anh còn kể lại chuyện uống nước tiểu của Sheree từ một cái chai nhỏ. Chúng tôi còn thấy phân dính trên dương vật của anh.

Mọi lỗ hổng trên người anh đều bị xâm chiếm và làm ô uế. Những hành vi đó khiến anh cương cứng và đạt được cực khoái trong tình dục. Bob sống qua tuổi 20 và 30, đến đầu tuổi 40 anh trở thành người sống sót lớn tuổi nhất của hội xơ nang. Anh mang theo chứng khổ dâm trên đường, đến các câu lạc bộ S&M và bảo tàng nghệ thuật, nơi anh thực hiện các nghi thức khổ dâm của mình nơi công cộng, luôn luôn đeo mặt nạ oxy để thở.

Ở một trong những cảnh phim cuối cùng Bob Flanagan đang khỏa thân và lấy búa đóng đinh vào dương vật mình, xuyên vào chính giữa, lên một tấm ván. Rồi sau đó anh ta tháo móng tay để máu chảy khắp ống kính máy quay phim…

Điều quan trọng là chúng ta phải mô tả chính xác những gì mà hệ thần kinh của Flanagan có thể chịu đựng, để hiểu mức độ mà các mạch não hoàn toàn mới có thể phát triển, liên kết hệ thống đau với hệ thống khoái cảm.

Ý tưởng của Flanagan rằng nỗi đau của anh phải được biến thành niềm vui đã tô màu cho những tưởng tượng của anh từ thời thơ ấu. Quá khứ đáng chú ý của anh xác nhận rằng sự biến thái tình dục của anh phát triển từ trải nghiệm cuộc đời độc nhất và được liên kết với những ký ức đau thương của anh. Khi còn là một đứa trẻ sơ sinh, anh ta bị trói vào cũi trong bệnh viện để anh ta không thể trốn thoát và làm tổn thương chính mình. Đến năm bảy tuổi, sự giam cầm của anh đã biến thành tình yêu đối với sự co thắt. Khi trưởng thành, anh ta yêu thích sự trói buộc và bị còng tay hoặc trói và treo trong khoảng thời gian kéo dài ở những vị trí mà những kẻ tra tấn có thể sử dụng để hủy hoại nạn nhân của mình. Khi còn nhỏ, anh được yêu cầu phải cam chịu trước các y tá và bác sĩ quyền lực đã làm tổn thương anh; khi trưởng thành, anh ta tự nguyện trao quyền lực này cho Sheree, trở thành nô lệ của cô, người mà cô có thể lạm dụng. Ngay cả những khía cạnh tinh tế trong mối quan hệ thời thơ ấu của anh ấy với các bác sĩ của anh ấy cũng được lặp lại ở tuổi trưởng thành. Việc Bob cho phép Sheree lặp lại một khía cạnh của chấn thương bởi vì, sau một độ tuổi nhất định, khi các bác sĩ lấy máu, đâm vào da thịt và làm tổn thương anh ta, anh ta đã cho phép họ làm điều đó, vì biết rằng cuộc sống của anh ta phụ thuộc vào nó.

Sự phản chiếu của những sang chấn thời thơ ấu thông qua việc lặp đi lặp lại những chi tiết tinh tế như vậy là điển hình của những biến thái tình dục. Những người sùng bái đồ vật (Fetishists) – tức bị thu hút bởi đồ vật – có cùng đặc điểm. Một Fetist, theo Robert Stoller, là một đồ vật kể một câu chuyện, ghi lại những cảnh tượng từ sang chấn tâm lý thời thơ ấu và gợi dục. (Một người đàn ông trở thành tôn sùng đồ lót bằng cao su và áo mưa là một người thời thơ ấu hay đái dầm, buộc phải ngủ trên tấm đệm bằng cao su, khiến anh ta thấy nhục nhã và khó chịu. Flanagan thì tôn sùng một số đồ vật, là dụng cụ y tế và kim loại cùn từ các cửa hàng bán đồ kim khí – như ốc vít, móng tay, kẹp và búa – tất cả những thứ mà anh ta đã sử dụng, vào những thời điểm khác nhau, để kích thích tình dục-khổ dâm, để thâm nhập, véo hoặc đập vào da thịt anh ta.)

Trung tâm khoái lạc của Flanagan chắc chắn đã được điều chỉnh theo hai cách. Đầu tiên là, những cảm xúc như lo âu chẳng hạn, thường bị xem là khó chịu, đã trở nên thú vị. Anh ta giải thích răng anh đang liên tục đùa giỡn với thần chết vì anh được dự báo là sẽ chết sớm và đang cố gắng làm chủ nỗi sợ của mình. Trong bài thơ “Why” năm 1985, anh nói rõ rằng chứng siêu khổ dâm của anh mang lại cho anh cảm giác chiến thắng, dũng cảm và bất khả xâm phạm trước một cuộc đời dễ bị tổn thương. Nhưng anh còn đi xa hơn cả việc chỉ đơn thuần làm chủ nỗi sợ. Anh từng bị các bác sỹ làm bẽ mặt khi lột anh trần truồng và đặt vào trong chiếc lều nhựa để đo mồ hôi của anh. Bây giờ anh lại tự hào khi thoát y trong các viện bảo tàng. Để làm chủ cảm giác bị phơi bày và làm nhục khi còn bé, anh trở thành một người phô bày cơ thể đắc thắng. Nỗi xấu hổ chuyển thành lạc thú, chuyển thành sự trơ trẽn.

Khía cạnh thứ hai của sự điều chỉnh của anh đó là nỗi đau về mặt thể xác đã trở thành khoái lạc. Những đồ kim loại trong da thịt anh làm anh thấy vui, làm anh cương cứng và đạt cực khoái. Một số người khi gặp sự căng thẳng cực độ về thể xác đã giải phóng endorphins, thuốc giảm đau giống như thuốc phiện mà cơ thể chúng ta tạo ra để xoa dịu cơn đau và có thể khiến chúng ta thấy hưng phấn. Nhưng Flanagan nói rằng anh không muốn giảm đau, mà anh đang bị cuốn hút vào nó. Anh ta càng gây tổn thương cho bản thân, anh càng trở nên nhạy cảm hơn với cơn đau, và anh càng cảm thấy đau. Vì các hệ thống đau đớn và khoái lạc của anh đã liên kết với nhau, Flanagan vừa cảm nhận được cơn đau dữ dội, vừa cảm thấy sướng.

Trẻ em sinh ra đã bất lực, và trong giai đoạn quan trọng của tính dẻo về tính dục, chúng sẽ làm bất cứ điều gì để không bị bỏ rơi và gắn bó với người lớn, ngay cả nếu chúng phải học cách yêu lấy nỗi thống khổ và tổn thương do người lớn gây ra. Những người lớn trong thế giới nhỏ bé của Bob đã gây ra đau đớn cho anh “vì muốn tốt cho anh.” Bây giờ khi đã trở thành một người siêu khổ dâm, thật trớ trêu làm sao khi anh xem nỗi đau đớn như thể nó là bạn tốt của anh. Anh hoàn toàn ý thức được rằng mình đang bị mắc kẹt vào quá khứ, làm sống lại thời thơ ấu và tự nói với mình “vì tôi là một đứa trẻ to xác và tôi muốn sống theo lối đó.” Có lẽ tưởng tượng sống mãi với hình ảnh đứa bé bị hành hạ là một phương cách tưởng tượng giúp anh tránh được cái chết đang đợi anh nếu anh cho phép mình trưởng thành. Nếu anh có thể sống mãi như Peter Pan (mãi mãi không chịu trưởng thành), mãi mãi bị Sheree “tra tấn”, thì ít nhất anh cũng sẽ chẳng bao giờ lớn lên và chết sớm.

Cuối phim chúng ta thấy cảnh Flanagan đang hấp hối. Anh ta ngừng đùa bỡn và bắt đầu giống một con thú bị dồn vào đường cùng, ngập tràn nỗi sợ. Khán giả nhìn thấy anh ấy từng khiếp sợ biết chừng nào khi còn là một cậu bé, trước khi anh khám phá ra giải pháp khổ dâm để chế ngự cơn đau và nỗi sợ của anh. Vào lúc này, chúng ta học được từ Bob rằng Sheree đã nói về việc chia tay—đánh thức nỗi sợ lớn nhất của đứa trẻ, đó là sợ bị bỏ rơi. Sheree nói rằng vấn đề nằm ở chỗ Bob không còn phục tùng cô nữa. Trông anh đau khổ tột cùng— và cuối cùng cô ở lại chăm sóc anh một cách dịu dàng.

Trong những giây phút cuối cùng, anh gần như bị sốc, hỏi rằng, “Tôi có chết không? Tôi không hiểu điều đó … Chuyện gì đang xảy ra? … Tôi không bao giờ tin điều này.” Những tưởng tượng, trò chơi và nghi thức khổ dâm của anh mạnh mẽ đến nỗi tưởng chừng anh đã chấp nhận cái chết đau đớn, rằng dường như anh thực sự đã đánh bại được nó.

Đối với các bệnh nhân liên quan đến porn, đa số có thể sẽ run như cầy sấy một khi họ hiểu được vấn đề và cách họ củng cố nó về mặt tính dẻo thần kinh. Cuối cùng họ cũng phát hiện thấy mình lại bị thu hút bởi bạn tình của họ. Không ai trong số những người đàn ông này có tính cách nghiện ngập hoặc từng bị sang chấn tâm lý nghiêm trọng thời thơ ấu, và khi họ hiểu được điều gì đang xảy ra với họ, họ đã ngưng dùng máy tính một thời gian để làm suy yếu những mạng lưới thần kinh có vấn đề của họ, và sở thích xem porn của họ mất dần. Việc điều trị sở thích tình dục do học được trong giai đoạn sau này của họ thì đơn giản hơn so với việc điều trị cho những bệnh nhân học được những sở thích tình dục có vấn đề trong giai đoạn-quan trọng. Một số đàn ông có thể giống như A., thay đổi được kiểu tình dục của họ vì quy luật của tính dẻo thần từng cho phép chúng ta học được những thị hiếu có vấn đề, cũng cho phép ta học được những thị hiếu mới lành mạnh hơn. Và trong một số trường hợp, bỏ được những thị hiếu tình dục không lành mạnh. Đó chính là bộ não sử dụng-nó-hay-đánh mất-nó, áp dụng cho cả ham muốn tình dục và tình yêu.

Áp dụng Tính dẻo thần kinh để chấm dứt lo âu, những ám ảnh, những sự cưỡng bách và thói quen xấu

Chương 6: Mở khóa bộ não

Áp dụng Tính dẻo thần kinh để chấm dứt lo âu, những ám ảnh, những sự cưỡng bách và thói quen xấu

Tất cả chúng ta đều có những nỗi lo lắng của riêng mình. Chúng ta lo lắng vì chúng ta là những sinh vật thông minh. Trí thông minh dự đoán, đó là bản chất của nó; cũng chính trí thông minh ấy cho phép chúng ta lập kế hoạch, hy vọng, tưởng tượng và đưa ra giả thuyết cũng cho phép chúng ta lo lắng và lường trước kết quả tiêu cực. Tuy nhiên có những con người “siêu lo lắng”, họ là bậc thầy về lo lắng. Dù nỗi khổ của họ “đều nằm trong đầu họ” vượt xa những gì đa số mọi người trải qua vì tất cả khổ sở đều nằm trong đầu họ và do đó không thể thoát được. Những người như vậy thường xuyên bị tổn thương bởi chính bộ não của họ đến mức họ hay nghĩ đến chuyện tự tử. Có một trường hợp về một cậu sinh viên đại học tuyệt vọng vì bị mắc kẹt vào những lo lắng và ám ảnh cưỡng bách đã đặt một khẩu súng vào miệng và bóp cò. Viên đạn đi vào thùy trán của cậu, gây ra một sự phẫu thuật thùy não, đó là một cách điều trị cho chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Cậu ta vẫn còn sống, chứng rối loạn của cậu được chữa khỏi và cậu quay lại trường học.

Có nhiều kiểu người lo lắng và nhiều loại lo lắng— những nỗi ám ảnh, rối loạn stress sau sang chấn và những cơn hoảng loạn. Nhưng người khổ sở nhất trong số đó chính là những người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế, hay OCD, những người lo sợ rằng một số chuyện nguy hiểm sẽ đến, hoặc đã đến với họ hoặc với những người họ yêu thương. Mặc dù họ có thể khá lo lắng khi còn nhỏ, sau này, thường vào độ tuổi thanh niên, họ   bị một “cơn” hoảng loạn đưa nỗi lo lắng của họ lên một cấp độ mới. Từng là những người lớn tự lập, giờ đây họ mang theo mình cảm giác như đứa trẻ khốn khổ, đầy sợ hãi. Cảm thấy xấu hổ vì mất kiểm soát, họ thường che giấu nỗi lo lắng của họ với người khác, đôi khi trong nhiều năm, trước khi họ tìm kiếm sự trợ giúp. Trong những trường hợp xấu nhất, họ không thể thức tỉnh khỏi những cơn ác mộng này xảy ra trong nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm. Uống thuốc có thể dập tắt những cơn lo lắng của họ nhưng chúng thường không loại bỏ được vấn đề.

OCD thường trở nên trầm trọng hơn theo thời gian, từ từ thay đổi cấu trúc não bộ. Một bệnh nhân OCD có thể tìm cách giải tỏa bằng việc tập trung vào nỗi lo của anh ta— đảm bảo rằng anh ta kiểm soát tất cả các khía cạnh và không để lại chút sai sót nào— nhưng anh ta càng nghĩ đến nỗi sợ của mình thì anh càng lo lắng hơn về nó, vì với OCD, lo lắng sinh ra lo lắng.

Thường có một yếu tố kích thích về cảm xúc gây ra cơn hoảng loạn đầu tiên. Một người có thể nhớ lại chuyện vào ngày giỗ của mẹ mình, nghe được tin về một vụ tai nạn xe hơi của đối thủ, cảm thấy đau hay có một cục u trong cơ thể anh ta, đọc được một loại hóa chất trong nguồn cung cấp thực phẩm, hoặc nhìn thấy hình ảnh bàn tay bị bỏng trong phim. Sau đó anh ta bắt đầu lo sợ rằng anh đang ở gần cái độ tuổi mà mẹ anh hồi đó đã qua đời, dù nói chung không phải mê tín, nhưng bây giờ anh có cảm giác mình sẽ chết vào ngày hôm đó; hoặc cái chết ở độ tuổi còn trẻ của đối thủ cũng đang chờ đợi anh ta; hoặc anh ta đã phát hiện ra các triệu chứng ban đầu của một căn bệnh không có thuốc chữa; hoặc rằng anh ta đã bị đầu độc vì không đủ cảnh giác với những thứ anh ta đã ăn. Tất cả chúng ta đều có những ý nghĩ như thế lướt nhanh qua đầu. Nhưng người OCD thì bám chặt vào nỗi lo âu và không thể buông thả nó. Bộ não và tâm trí của họ đi qua những tình huống đáng sợ khác nhau, và mặc dù họ cố gắng kháng cự lại việc nghĩ đến chúng, nhưng không thể làm được. Những mối đe dọa có cảm giác rất thật, họ nghĩ rằng họ phải chú ý đến chúng. Những nỗi ám ảnh điển hình là nỗi sợ mắc bệnh nan y, bị nhiễm vi trùng, bị nhiễm độc hóa chất, bị đe dọa bởi bức xạ điện từ hoặc thậm chí bị mắc bệnh bởi gen. Đôi lúc những người bị ám ảnh trở nên ám ảnh với sự đối xứng: họ thấy khó chịu khi các tấm ảnh không đạt mức hoàn hảo hay khi hàm răng của họ không đều tăm tắp, hoặc khi các đồ vật không nằm theo trật tự hoàn hảo, và họ có thể tốn hàng giờ đồng hồ để xếp chúng đúng cách. Hoặc họ trở nên mê tín về những con số nào đó và có thể cài chuông báo thức hoặc điều chỉnh âm lượng với một số chẵn.

Những ý nghĩ về tình dục hoặc xung hấn – một nỗi sợ rằng họ đã làm tổn thương những người thương yêu – có thể xâm nhập vào tâm trí họ, nhưng họ không biết những ý nghĩ đó đến từ nơi nào. Một suy nghĩ ám ảnh điển hình có thể là “Tiếng uỵch mà tôi nghe thấy khi lái xe có nghĩa là tôi có thể đã cán qua ai đó.” Nếu họ theo tôn giáo, những ý nghĩ báng bổ có thể nảy sinh, gây ra cảm giác tội lỗi và lo lắng. Nhiều người mắc OCD có những nghi ngờ ám ảnh và luôn tự đoán: họ đã tắt bếp, khóa cửa chưa hoặc vô tình làm tổn thương cảm xúc của ai đó? Những nỗi lo lắng có thể kỳ quái— và vô nghĩa lý ngay cả đối với người lo lắng— nhưng điều đó không làm cho họ bớt dằn vặt đi chút nào. Một người mẹ và người vợ yêu thương hay lo rằng, “Tôi sẽ làm hại con tôi”, hoặc “Tôi sẽ thức dậy trong giấc ngủ và đâm chồng tôi bằng một con dao thái thịt vào ngực khi anh ta đang ngủ.” Một người chồng có suy nghĩ ám ảnh rằng có những lưỡi dao cạo gắn vào móng tay của anh ta, vì vậy anh ta không thể chạm vào con cái, làm tình với vợ hoặc vỗ về con chó của mình. Mắt anh không thấy lưỡi dao, nhưng tâm trí anh khăng khăng rằng chúng đang ở đó, và anh cứ hỏi vợ để đảm bảo rằng anh không làm tổn thương cô.

Thường thì nguyên nhân của nỗi ám sợ về tương lai là bởi vì họ có thể từng phạm phải một số lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng không chỉ những sai lầm đã xảy ra làm họ ám ảnh. Mà họ còn tưởng tượng ra những sai lầm mình có thể mắc phải, họ mà buông lỏng sự cảnh giác trong một khoảnh khắc thì cũng gây ra một cảm giác sợ hãi chết khiếp không thể nào dập tắt. Nỗi đau đớn của người lo lắng ám ảnh là bất cứ khi nào điều gì xấu có thể xảy ra, thì họ có cảm giác như không thể tránh khỏi.

Tôi đã có một vài bệnh nhân lo lắng về sức khỏe của họ rất mãnh liệt đến nỗi họ cảm thấy như đang ở trong vòng tử thần, mỗi ngày qua đi là sự đợi chờ bị xử tử. Nhưng vở kịch của họ không dừng ở đó. Ngay cả khi được cho biết sức khỏe của họ vẫn ổn, họ có thể cảm nhận được chút khuây khỏa ngắn ngủi trước khi họ tự chẩn bệnh cho bản thân là “điên khùng” vì tất cả những gì họ bắt bản thân phải gánh chịu.

Ngay sau khi những lo lắng ám ảnh bắt đầu, bệnh nhân OCD thường làm việc gì đó để giảm bớt lo lắng, một hành động mang tính cưỡng bách. Nếu họ cảm thấy mình đã bị nhiễm vi trùng, họ sẽ giặt giũ, tắm rửa; khi điều đó không làm cho nỗi lo lắng biến mất, họ sẽ đem giặt tất cả quần áo, sàn nhà và sau đó là các bức tường. Nếu một người phụ nữ lo sợ mình sẽ giết con ruột, cô ta bọc con dao đồ tể bằng vải, gói nó trong một cái hộp, khóa nó dưới tầng hầm, sau đó khóa cửa xuống tầng hầm. Nhà tâm thần học UCLA Jeffrey M. Schwartz mô tả một người đàn ông sợ bị nhiễm bệnh bởi axit ắc quy tràn ra trong các vụ tai nạn xe hơi. Mỗi đêm anh nằm trên giường lắng nghe tiếng còi báo động báo hiệu một vụ tai nạn gần đó. Khi nghe thấy tiếng còi, anh sẽ bật dậy, bất kể giờ nào, mang đôi giày chạy thể thao, và lái xe cho đến khi anh tìm thấy địa điểm xảy ra tai nạn. Sau khi cảnh sát rời đi, anh ta sẽ chà nhựa đường bằng bàn chải trong nhiều giờ, sau đó trốn về nhà và vứt đôi giày anh ta đã mang.

Jeffrey M. Schwartz

Những người nghi ngờ ám ảnh thường phát triển “những thói quen kiểm tra mang tính cưỡng bách.” Nếu họ nghi ngờ rằng họ chưa tắt bếp hay khóa cửa, họ sẽ quay lại để kiểm tra và kiểm tra lại thường đến hàng trăm lần trở lên. Vì sự nghi ngờ không bao giờ biến mất, nên họ có thể mất hàng tiếng đồng hồ mới ra khỏi nhà. Những người sợ hãi khi nghe thấy một tiếng uỵch trong khi đang lái xe có nghĩa là họ đã cán qua ai đó, thì họ sẽ lái xe vòng quanh khu vực đó để đảm bảo không nhìn thấy xác chết nào trên đường. Nếu nỗi sợ ám ảnh của họ là về một căn bệnh chết người thì họ sẽ kiểm tra đi kiểm tra lại cơ thể họ để tìm các triệu chứng hoặc đi khám bác sỹ hàng chục lần. Sau một thời gian, những hành vi kiểm tra mang tính cưỡng bách đó trở thành một nghi thức. Nếu họ cảm thấy mình dơ dáy bẩn thỉu, họ phải làm bản thân sạch sẽ theo quy trình nghiêm ngặt: đeo bao tay để bật vòi nước và kỳ cọ cơ thể theo một trình tự cụ thể; nếu họ có những suy nghĩ về tình dục hoặc ý nghĩ báng bổ, họ sẽ nghĩ ra một nghi thức cầu nguyện để thực hiện một số lần nhất định. Những nghi thức này có lẽ liên quan đến niềm tin vào phép màu hoặc mê tín mà đa số người bị ám ảnh hay có. Nếu họ tìm cách để tránh thảm họa, thì đó là bởi vì đích thân họ kiểm tra theo một cách thức nào đó, và hy vọng duy nhất của họ là tiếp tục kiểm tra mỗi lần theo cùng một cách.

Những người mắc ám ảnh cưỡng chế, thường có nhiều nghi ngờ, có thể trở nên khiếp sợ khi mắc phải một sai lầm và bắt đầu chỉnh sửa bản thân và người khác. Một phụ nữ đã mất hàng trăm giờ chỉ để viết những lá thư ngắn vì cô cảm thấy không thể tìm được từ ngữ nào mà không gây ra cảm giác ”hiểu nhầm”. Nhiều luận văn tiến sỹ — tác giả không phải là người cầu toàn, mà vì người viết mắc OCD không thể tìm ra những từ ngữ nào hoàn toàn không đem đến “cảm giác” sai.

Khi một người cố gắng chống lại một sự cưỡng bách thì sự căng thẳng của anh ta tăng lên đến mức cực kỳ dữ dội. Nếu anh ta hành động theo nó thì có thể tạm thời được khuây khỏa, nhưng có nhiều khả năng khiến ý nghĩ ám ảnh và thôi thúc cưỡng bách chỉ trở nên tệ hơn khi nó lại xuất hiện.

OCD rất khó điều trị. Đối với nhiều người, uống thuốc và tri liệu hành vi chỉ đỡ được phần nào. Jeffrey M. Schwartz đã phát triển một cách trị liệu hiệu quả, dựa trên tính dẻo, không chỉ giúp được cho chứng rối loạn ám ảnh cưỡng bức mà còn giúp những người gặp nhiều lo lắng hằng ngày, khi chúng ta bắt đầu lo lắng chuyện gì đó và không thể ngừng được dù ta biết chuyện đó vô nghĩa. Nó có thể giúp chúng ta khi chúng ta bị “dính mắc” về mặt tinh thần và bám chặt vào những lo lắng hoặc khi chúng ta có hành vi cưỡng bách và bị thôi thúc bởi “những thói quen xấu” như cắn móng tay, nhổ tóc, mua sắm, đánh bạc và ăn uống. Thậm chí một số hình thức ghen tuông ám ảnh, lạm dụng chất gây nghiện, hành vi tình dục cưỡng bách và quan tâm quá mức đến những gì người khác nghĩ về chúng ta, hình ảnh bản thân, cơ thể và lòng tự trọng có thể cải thiện.

Schwartz đã phát triển những hiểu biết mới về OCD bằng cách so sánh hình ảnh chụp não của những người mắc OCD với những người không bị, sau đó dùng những hiểu biết này để phát triển hình thức trị liệu mới của ông— lần đầu tiên, theo hiểu biết của tôi, việc chụp não như PET giúp bác sỹ vừa hiểu được về căn bệnh vừa phát triển một liệu pháp tâm lý cho nó. Sau đó ông kiểm tra cách điều trị mới này bằng cách chụp não các bệnh nhân của ông trước và sau khi làm trị liệu tâm lý và cho thấy bộ não của họ đã bình thường trở lại với nhờ trị liệu. Đây là một minh chứng đầu tiên khác cho thấy liệu pháp nói chuyện có thể làm thay đổi bộ não.

Thông thường khi chúng ta mắc phải một sai lầm, sẽ có ba thứ xảy ra. Trước tiên, chúng ta có một “cảm giác sai lầm”, một sự cằn nhằn vì thứ gì đó sai trái. Thứ hai, chúng ta trở nên lo lắng, và nỗi lo thúc đẩy chúng ta sửa sai. Thứ ba, khi chúng ta đã sửa lỗi, một sự chuyển số tự động trong bộ não cho phép chúng ta chuyển sang suy nghĩ hoặc hoạt động tiếp theo. Rồi cuối cùng “cảm giác sai lầm” và lo lắng biến mất.

Nhưng bộ não của người bị ám ảnh cưỡng chế không thể chuyển sang “hoạt động mới, suy nghĩ mới” được. Cho dù anh ấy đã sửa lỗi sai chính tả, đã rửa tay để diệt vi trùng hoặc đã xin lỗi vì quên ngày sinh nhật bạn, thì anh ta vẫn tiếp tục bị ám ảnh. Hộp chuyển số tự động của anh không làm việc, và cảm giác sai lầm và lo lắng ngày càng tăng.

Từ việc chụp não, bây giờ chúng ta đã biết có ba phần của bộ não liên quan đến nỗi ám ảnh.

Chúng tôi phát hiện ra những sai sót ở vùng vỏ não trán ổ mắt, một phần của thùy trán, ở mặt dưới của não, ngay sau mắt của chúng ta. Chụp não cho thấy một người càng nhiều ám ảnh thì vùng vỏ não trán ổ mắt của anh ta càng hoạt động nhiều.

Khi vỏ não trán ổ mắt kích hoạt “cảm giác sai lầm”, nó sẽ gửi tín hiệu đến hồi đai, nằm ở phần sâu nhất của vỏ não. Hồi đai gây ra lo lắng khủng khiếp rằng một chuyện tồi tệ sẽ xảy ra trừ khi chúng ta sửa chữa sai lầm và gửi tín hiệu đến cả ruột và trái tim, gây ra những cảm giác vật lý mà chúng ta gắn liền với nỗi khiếp sợ. “Chuyển số tự động”, nhân đuôi (caudate nucleus), nằm sâu trong trung tâm của não và cho phép những suy nghĩ của chúng ta chảy từ chỗ này sang chỗ khác trừ khi, như trong OCD, nhân đuôi trở nên cực kỳ “dính”.

Hình chụp não của các bệnh nhân OCD đều cho thấy cả ba vùng não này đều hoạt động thái quá. Vỏ não trán ổ mắt và hồi đai bật lên và duy trì tình trạng đó cứ như thể bị khóa mãi ở “vị trí bật” cùng với nhau— một lý do khiến Schwartz gọi OCD là “khóa não.” Vì nhân đuôi không “chuyển số” tự động, nên vỏ não trán ổ mắt và hồi đai tiếp tục bắn tín hiệu của chúng, làm tăng cảm giác sai lầm và nỗi lo. Vì người đó đã sửa chữa lỗi sai, tất nhiên chúng là những báo động sai. Nhân đuôi bị trục trặc nên có thể hoạt động quá mức vì nó bị mắc kẹt và bị nhấn chìm bởi những tín hiệu từ vỏ não trán ổ mắt.

Nguyên nhân gây ra tình trạng khóa não OCD nghiêm trọng thì khác nhau. Trong nhiều trường hợp, nó xảy ra do di truyền trong gia đình, nhưng nó cũng có thể gây ra bởi bệnh nhiễm trùng làm sưng thùy đuôi. Và chúng ta sẽ thấy, học tập cũng đóng vai trò trong sự phát triển của nó. Schwartz bắt đầu phát triển một phương pháp điều trị sẽ thay đổi mạch OCD bằng cách mở khóa liên kết giữa vỏ não ổ mắt và hồi đai, và bình thường hóa chức năng của thùy đuôi. Schwartz tự hỏi liệu các bệnh nhân có thể thay đổi thùy đuôi một cách “thủ công” bằng cách liên tục tập trung, nỗ lực và chủ động chú ý đến một điều gì đó ngoài nỗi lo lắng không, chẳng hạn như một hoạt động mới, vui vẻ thú vị. Cách tiếp cận này có thể hiểu được về mặt tính dẻo thần kinh vì nó “phát triển” một mạch não mới mang lại niềm vui và kích hoạt giải phóng dopamine, như chúng ta đã thấy, tưởng thưởng cho hoạt động mới và củng cố, phát triển những liên kết thần kinh mới. Mạch não mới này cuối cùng có thể cạnh tranh lại mạch não cũ, và theo nguyên tắc sử dụng nó-hay-mất nó, các mạng lưới bệnh lý sẽ bị suy yếu. Với cách trị liệu này chúng ta không chỉ “phá bỏ” những thói quen xấu, mà còn thay thế hành vi xấu bằng những hành vi tốt hơn.

Schwartz chia trị liệu thành một số bước, trong đó có hai bước chính. Bước đầu tiên là khi một người bị một cơn OCD tấn công thì sẽ gọi lại tên sự việc đang xảy đến với anh ta, để anh ta nhận ra những gì mà anh đang trải qua không phải là một sự tấn công của vi trùng, bệnh AIDS, hoặc axit pin, mà chỉ là một cơn OCD mà thôi. Anh ta cần nhớ rằng khóa não diễn ra ở cả ba phần của não bộ. Là một nhà trị liệu, tôi khuyến khích các bệnh nhân OCD tự nói với bản thân như sau: “Vâng, ngay bây giờ tôi đang gặp một vấn đề thực sự. Nhưng vấn đề không phải ở những con vi trùng, mà là căn bệnh OCD của tôi.” Việc gọi lại tên này cho phép họ tạo được khoảng cách với nội dung của nỗi ám ảnh và quan sát nó theo cách tương tự như đạo Phật quan sát nỗi khổ trong thiền định: họ quan sát những tác động của nó đối với họ và nhẹ nhàng tách rời bản thân khỏi nỗi khổ.

Bệnh nhân OCD cần tự nhắc bản thân rằng nguyên nhân của sự tấn công không biến mất ngay lập tức là do mạch não bị lỗi của họ. Giữa lúc bị OCD tấn công, một số bệnh nhân có thể thấy điều này hữu ích khi nhìn vào ảnh chụp bộ não bất thường của người bị OCD trong cuốn sách Brain Lock của Schwartz, và so sánh nó với ảnh chụp bộ não bình thường của các bệnh nhân được trị liệu của Schwartz, để tự nhắc bản thân rằng họ cũng có thể thay đổi mạch não của mình.

Schwartz đang dạy các bệnh nhân phân biệt giữa dạng OCD phổ biến (những ý nghĩ và thôi thúc phiền toái xâm nhập vào ý thức) và nội dung của một nỗi ám ảnh (chẳng hạn như, ám ảnh với những mầm bệnh nguy hiểm). Bệnh nhân càng tập trung vào nội dung ám ảnh thì tình trạng của họ càng tồi tệ.

Trong một thời gian dài, các nhà trị liệu đã tập trung vào những nội dung ám ảnh. Phương pháp điều trị phổ biến cho OCD được gọi là “phòng ngừa phơi nhiễm và đáp ứng”, một dạng trị liệu hành vi giúp cho khoảng một nửa số người mắc OCD đạt được một số cải thiện, dù hầu hết không cải thiện hoàn toàn. Nếu một người sợ vi trùng, anh ta sẽ được cho tiếp xúc nhiều hơn với vi trùng, nhằm giải mẫn cảm cho anh. Trong thực tế, điều này có nghĩa là yêu cầu bệnh nhân dành nhiều thời gian ở trong toilet. (Khi lần đầu tiên tôi nghe về cách trị liệu này, bác sỹ tâm thần đã yêu cầu một người đàn ông đeo quần lót bẩn lên mặt). Có thể hiểu được tại sao 30 phần trăm bệnh nhân từ chối những kiểu điều trị như vậy. Cho họ tiếp xúc với vi trùng không nhằm mục tiêu “chuyển hộp số sang” ý nghĩ tiếp theo; mà nó khiến bệnh nhân càng dính mắc nhiều hơn vào chúng— ít nhất là trong một thời gian.

Phần thứ hai của trị liệu hành vi theo tiêu chuẩn là “đáp ứng phòng ngừa”, tức là ngăn không cho bệnh nhân hành động theo sự cưỡng bách của họ. Một dạng khác của trị liệu, là Trị liệu Nhận thức, dựa trên tiền đề rằng tâm trạng có vấn đề và những trạng thái lo âu bị gây ra bởi những sự bóp méo về nhận thức – những suy nghĩ không đúng đắn hoặc bị phóng đại. Các nhà trị liệu nhận thức yêu cầu bệnh nhân OCD viết ra giấy những nỗi sợ của họ và sau đó liệt kê các lý do tại sao những nỗi sợ đó là vô lý. Nhưng phương pháp này cũng khiến bệnh nhân đắm chìm vào nội dung của chứng ám ảnh cưỡng bức của anh ta. Schwartz cho hay, “Dạy bệnh nhân nói rằng ‘Tay tôi không bẩn’ chỉ đơn giản là sự lặp lại môt điều cô ấy đã biết…sự bóp méo nhận thức không phải là một phần bản chất của căn bệnh OCD; một bệnh nhân OCD về cơ bản biết rằng không đếm đúng số lon đồ hộp trong tủ đựng thức ăn hôm nay sẽ không làm mẹ cô ấy chịu một cái chết kinh khủng vào tối nay. Vấn đề là, cô ấy không cảm thấy như vậy.”

Các nhà phân tâm học cũng tập trung vào nội dung của các triệu chứng, nhiều nội dung liên quan đến những ý nghĩ rắc rối về xung hấn và tình dục. Họ phát hiện thấy một ý nghĩ ám ảnh, chẳng hạn như “Tôi sẽ làm tổn thương con tôi” có thể bộc lộ một cơn giận bị kìm nén trước đứa trẻ, và sự hiểu biết này có thể đủ để khiến một nỗi ám ảnh biến mất trong các trường hợp bị OCD nhẹ. Nhưng điều này thường không có hiệu quả với OCD vừa hoặc nặng. Và mặc dù Schwartz tin rằng nguồn gốc của nhiều chứng ám ảnh có liên quan đến kiểu xung đột về tình dục, sự xung hấn và tội lỗi mà Freud đã nhấn mạnh, thì những xung đột đó chỉ giải thích về nội dung chứ không phải hình thức của chứng rối loạn.

Sau khi một bệnh nhân thừa nhận rằng lo lắng là một triệu chứng của OCD, bước quan trọng tiếp theo là tập trung lại vào một hoạt động giải trí tích cực, lành mạnh, bổ ích và lý tưởng ngay khi anh ta nhận ra mình đang bị một cơn OCD tấn công. Hoạt động này có thể là làm vườn, giúp đỡ ai đó, chơi nhạc cụ, nghe nhạc, tập thể dục hoặc ném bóng rổ. Một hoạt động có liên quan đến người khác giúp bệnh nhân tập trung. Nếu OCD tấn công trong lúc bệnh nhân đang lái xe, anh nên chuẩn bị sẵn một hoạt động như một cuốn sách hay một đĩa CD. Điều thiết yếu là làm một việc gì đó, để “thay đổi” hộp số tự động.

Dù điều này có vẻ là một quá trình hành động rõ ràng và đơn giản, nhưng với người bị OCD thì không dễ thực hiện. Schwartz trấn an bệnh nhân của ông rằng dù “đường truyền thủ công” của họ vẫn còn dính lại, thì bằng sự nỗ lực, nó có thể được chuyển đổi bằng một ý nghĩ hay hành động cố gắng tại một thời điểm.

Tất nhiên, việc ‘chuyển số’ là một ẩn dụ của máy móc, và bộ não không phải là một cỗ máy; nó là một cơ quan sống và có tính dẻo. Mỗi lần bệnh nhân cố gắng ‘chuyển số’, họ bắt đầu sửa chữa “đường truyền” của chúng bằng cách phát triển những mạch não mới và thay đổi nhân đuôi. Bằng việc tái tập trung, bệnh nhân đang học cách không dính mắc vào nội dung của một chứng ám ảnh mà có thể sinh hoạt, làm việc dù có nó. Tôi khuyên các bệnh nhân của mình nghĩ đến nguyên tắc sử dụng-nó-hay-đánh mất-nó. Mỗi lúc họ dành thời gian nghĩ về triệu chứng – tin rằng họ đang bị đe dọa bởi vi trùng- họ đang làm sâu sắc thêm mạch não ám ảnh. Bằng cách phớt lờ nó đi, họ đang đi trên con đường đánh mất nó. Đối với những chứng ám ảnh và thôi thúc cưỡng bách, bạn càng làm theo sự cưỡng bách thì bạn càng muốn làm nhiều hơn nữa; bạn càng ít làm theo thì bạn sẽ ngày càng ít muốn làm việc đó.

Theo Schwartz, điều cơ bản cần hiểu là những gì bạn cảm nhận trong khi áp dụng kỹ thuật này là không quan trọng, mà quan trọng là những gì bạn làm. “Bạn đấu tranh không nhằm để khiến cảm xúc mất đi; mà bạn đang đấu tranh để không đầu hàng trước cảm xúc”— khi hành động theo một sự cưỡng bách hoặc suy nghĩ về nỗi ám ảnh. Kỹ thuật này không mang lại sự giải tỏa ngay tức thì vì sự thay đổi tính dẻo thần kinh lâu bền cần có thời gian, nhưng nó đặt nền tảng cho sự thay đổi bằng cách tập luyện bộ não theo một cách thức mới mẻ. Vì vậy, lúc đầu, bệnh nhân vẫn sẽ cảm thấy thôi thúc thực hiện hành vi cưỡng bách, và sự căng thẳng cùng lo lắng khi kháng cự lại nó. Mục tiêu là “thay đổi kênh” sang một số hoạt động mới trong 15-30 phút khi một người đang có một triệu chứng OCD. (Nếu một người không thể kháng cự trong thời gian dài, thì dù chỉ kháng cự được trong 1 phút thôi cũng mang lại ích lợi. Sự kháng cự đó, nỗ lực đó chính là cái cần để tạo ra những mạch não mới.) Bạn có thể thấy kỹ thuật của Schwartz với bệnh nhân OCD có nhiều điểm tương đồng với cách tiếp cận CI cho bệnh nhân đột quỵ của Taub. Bằng cách buộc bệnh nhân “đổi kênh” và tái tập trung vào một hoạt động mới, Schwartz đang áp đặt một sự ràng buộc. Bằng cách khiến các bệnh nhân tập trung mãnh liệt vào hành vi mới, trong các phân đoạn ba mươi phút, ông đang cho họ thực hành tập trung.

Trong chương 3, “Thiết kế lại Bộ não,” chúng ta đã học được hai quy luật then chốt của tính dẻo thần kinh, và chúng cũng làm nền tảng cho phương pháp trị liệu này. Quy luật đầu tiên là những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau. Bằng cách làm điều gì đó thú vị, vui vẻ thay thế cho hành vi cưỡng bách, các bệnh nhân đang hình thành nên một mạch não mới dần dần được củng cố thay vì củng cố hành vi cưỡng bách. Quy luật thứ hai là Các tế bào thần kinh bắn điện riêng thì có những liên kết riêng. Khi không hành động theo những sự cưỡng bách của họ, bệnh nhân làm suy yếu mối liên kết giữa sự cưỡng bách và quan niệm rằng nó sẽ xoa dịu nỗi lo lắng của họ. Việc xóa bỏ mối liên kết này rất quan trọng, bởi vì như chúng ta đã thấy, trong khi hành động theo một sự cưỡng bách sẽ giúp giảm bớt nỗi lo âu trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn nó lại làm bệnh OCD trở nên trầm trọng hơn.

Schwartz đã có kết quả tốt với các trường hợp nghiêm trọng. 80% bệnh nhân của ông ấy đã khá hơn khi họ sử dụng phương pháp của ông kết hợp với thuốc – điển hình là thuốc chống trầm cảm như Anafranil hoặc thuốc loại Prozac. Các chức năng của thuốc như bánh xe phụ của một chiếc xe đạp, để giảm bớt lo lắng hoặc hạ thấp nó đủ để bệnh nhân được hưởng lợi từ liệu pháp này. Theo thời gian, nhiều bệnh nhân đã bỏ thuốc và một số người không cần dùng thuốc để bắt đầu với liệu pháp này.

Tôi thấy phương pháp khóa não có hiệu quả tốt với các vấn đề OCD điển hình như sợ vi trùng, rửa tay, sự thúc bách kiểm tra, và những nỗi sợ hãi do tưởng tượng. Khi bệnh nhân tự áp dụng, “chuyển số thủ công” sẽ ngày càng tự động hóa hơn. Các giai đoạn OCD trở nên ngắn hơn và ít thường xuyên hơn, và mặc dù bệnh nhân có thể tái phát trong những lúc gặp căng thẳng thì họ vẫn có thể sử dụng kỹ thuật mới phát hiện này để nhanh chóng lấy lại quyền kiểm soát.

Khi Schwartz và nhóm của ông chụp não của những bệnh nhân đã cải thiện, họ phát hiện thấy ba phần của não bộ từng bị “khóa lại” và bắn điện cùng với nhau một cách quá mức, thì giờ đã bắn điện riêng biệt theo cách bình thường. Khóa não đã được phá bỏ.

Tôi đang dự một buổi tiệc tối với một người bạn, tôi sẽ gọi cô ấy là Emma; và anh chồng là nhà văn của cô, Theodore; cùng nhiều nhà văn khác.

Emma đang ở độ tuổi bốn mươi. Khi cô hai mươi ba tuổi, một đột biến di truyền tự phát đã gây ra một căn bệnh gọi là viêm sắc tố võng mạc khiến các tế bào võng mạc của cô bị chết. Năm năm trước, cô bị mù hoàn toàn và bắt đầu dựa vào một con chó giống Labrador mắt sáng, tên là Matty.

Tật khiếm thị của Emma đã tổ chức lại cơ cấu bộ não và cuộc sống cô ấy. Một số người trong chúng tôi có mặt tại bữa tối quan tâm đến văn học, nhưng vì cô ấy bị mù, Emma đã đọc nhiều hơn bất kỳ ai trong chúng tôi. Một chương trình máy tính từ Hệ thống Giáo dục Kurzweil đọc sách cho cô ấy nghe với giọng đơn điệu, tạm ngưng khi có dấu phẩy, những quãng nghỉ, và lên giọng cho những câu hỏi. Giọng đọc của máy tính có tốc độ rất nhanh. Nhưng Emma đã dần dần học cách lắng nghe với tốc độ ngày càng nhanh hơn, vì vậy cô hiện đang đọc khoảng 340 từ một phút và đang đọc qua tất cả các tác phẩm kinh điển vĩ đại. ” Tôi tìm một tác giả, và tôi đọc tất cả mọi thứ anh ta viết rồi sau đó tôi chuyển sang tác giả khác.” Cô đã đọc Dostoyevsky (tác giả yêu thích của cô), Gogol, Tolstoy, Turgenev, Dickens, Chesterton, Balzac, Hugo, Zola, Flaubert, Proust, Stendhal, và nhiều nhà văn khác. Gần đây cô đọc ba cuốn tiểu thuyết Trollope trong một ngày. Cô ấy hỏi tôi làm sao mà cô ấy có thể đọc nhanh hơn nhiều so với trước khi cô bị mù. Tôi đưa ra giả thuyết rằng vỏ não thị giác rộng lớn của cô ấy, không còn xử lý thị giác, đã được tiếp quản để xử lý thính giác. Tối hôm đó Emma hỏi tôi có biết gì tại sao con người lại có nhu cầu kiểm tra mọi thứ rất nhiều không? Cô ấy kể với tôi rằng cô thường gặp nhiều rắc rối để ra khỏi nhà, vì cô liên tục kiểm tra bếp lò và các ổ khóa. Quay về nhà khi cô vẫn đang lái xe đi làm, cô có thể đang đi làm, đi được nửa đường rồi và phải quay lại để đảm bảo chắc chắn rằng cô đã khóa cửa đúng cách. Khi cô trở lại, cô sẽ cảm thấy bắt buộc phải kiểm tra xem bếp, thiết bị điện và nước đã tắt chưa. Cô sẽ rời đi, sau đó phải lặp lại toàn bộ chu kỳ đó nhiều lần nữa, trong lúc đang cố gắng chống lại thôi thúc kiểm tra đồ. Cô nói với tôi rằng người cha độc đoán của cô từng làm cô thấy lo lắng khi cô lớn lên. Khi cô rời khỏi gia đình, cô không còn nỗi lo lắng đó nữa nhưng lại nhận thấy bây giờ có vẻ nó được thay thế bằng thói quen kiểm tra này, và nó đang tiếp tục nghiêm trọng hơn.

Tôi giải thích lý thuyết khóa não cho cô ấy hiểu. Tôi nói với cô ấy rằng chúng ta thường kiểm tra đi kiểm tra lại các thiết bị mà không thực sự tập trung. Vì vậy, tôi đề nghị cô ấy chỉ kiểm tra một lần, và một lần duy nhất, với sự cẩn trọng tối đa.

Lần sau gặp lại, cô ấy vui mừng cho biết. “Tôi tốt hơn rồi”. “Tôi chỉ kiểm tra một lần, và tôi tiếp tục cuộc sống. Tôi vẫn cảm thấy có thôi thúc phải kiểm tra, nhưng tôi chống lại nó, và rồi nó qua đi. Khi tôi tập luyện nhiều hơn, nó sẽ trôi qua nhanh hơn.”

Cô cau có với chồng. Anh ấy đã nói đùa rằng thật bất lịch sự khi làm phiền bác sĩ tâm thần với chứng thần kinh của cô ấy khi chúng tôi đang dự tiệc. “Theodore,” cô nói, “Không phải em bị điên khùng đâu. Mà chỉ là bộ não của em không chuyển sang hoạt động khác.”

Chương 7. Cơn đau

Mặt tối của Tính dẻo thần kinh (Plasticity)

Khi chúng ta muốn hoàn thiện các giác quan của mình thì tính dẻo thần kinh là một phước lành; nhưng khi áp dụng nó vào địa hạt của cơn đau, tính dẻo thần kinh có thể là một lời nguyền. Người thầy hướng dẫn chúng ta tìm hiểu về cơn đau là một trong những nhà khoa học thần kinh truyền cảm hứng nhất, V. S. Ramachandran. Vilayanur Subramanian Ramachandran sinh ra ở Madras, Ấn Độ. Ông là một nhà thần kinh học, gốc Ấn Độ, và là một di sản đáng tự hào của khoa học thế kỷ 19, người đã giải quyết được những nan đề của thế kỷ 21.

Ramachandran là một bác sỹ, một chuyên gia về thần kinh học, với bằng tiến sỹ về tâm lý học tại Trinity College, Cambridge. Chúng tôi gặp nhau ở San Diego, nơi ông làm giám đốc Trung tâm Nhận thức và não bộ tại đại học California. “Rama” có mái tóc đen lượn sóng và mặc áo khoác da màu đen. Giọng nói của ông vang vang. Ông nói giọng Anh nhưng khi vui mừng phấn khích, âm r’s của ông giống như một hồi trống dài.

Trong khi nhiều nhà khoa học thần kinh nghiên cứu để giúp mọi người phát triển hoặc phục hồi các kỹ năng như – đọc, di chuyển hoặc khắc phục những khuyết tật về học tập— thì Ramachandran sử dụng tính dẻo để tổ chức lại nội dung trong tâm trí của chúng ta. Ông chỉ ra chúng ta có thể điều chỉnh lại bộ não của mình thông qua các phương pháp điều trị tương đối ngắn, không gây đau, bằng cách sử dụng trí tưởng tượng và nhận thức.

Văn phòng của ông không có những thiết bị công nghệ cao mà thay vào đó là những chiếc máy đơn giản của thế kỷ 19, những phát minh nhỏ thu hút trẻ em đến với khoa học. Có một ống kính lập thể, một dụng cụ quang học làm cho hai hình ảnh của cùng một cảnh nhìn được ba chiều. Có một thiết bị từ tính đã được sử dụng để điều trị chứng hysteria, một vài kiểu gương nhà cười, kính lúp cổ điển, hóa thạch và bộ não được bảo tồn của một thanh niên. Ngoài ra còn có một bức tượng bán thân của Freud, một bức tranh của Darwin và một số tác phẩm nghệ thuật Ấn Độ khêu gợi.

Đây chỉ có thể là văn phòng của một người đàn ông, Sherlock Holmes của ngành thần kinh học hiện đại, V. S. Ramachandran. Ông là một trinh thám, giải được những bí ẩn từng trường hợp một, như thể hoàn toàn không biết rằng khoa học hiện đại đang chiếm lĩnh các nghiên cứu thống kê lớn. Ông tin rằng các trường hợp cá nhân có thể đóng góp mọi thứ cho khoa học. Như ông đã nói “Hãy tưởng tượng tôi tặng cho một nhà khoa học đa nghi một con lợn và quả quyết rằng nó nói được tiếng Anh, rồi tôi vẫy tay và con lợn nói tiếng Anh. Làm sao nhà khoa học đa nghi ấy cãi nổi, ‘Nhưng nó chỉ là một con lợn, Ramachandran. Hãy cho tôi xem con khác, và tôi có thể tin anh!

Ông đã liên tục chỉ ra bằng cách giải thích về “những trường hợp kỳ lạ” của khoa học thần kinh, ông có thể làm sáng tỏ hoạt động của bộ não bình thường. “Tôi ghét đám đông trong khoa học,” ông nói với tôi.

Ông cũng không hứng thú với những hội thảo khoa học lớn. “Tôi nói với các sinh viên của mình rằng, khi các anh chị tham gia những buổi hội thảo đó, hãy nhìn xem hướng đi của mọi người ở đó để các anh các chị có thể đi theo hướng ngược lại. Đừng đánh bóng đồng thau trên băng chuyền.”

Từ năm tám tuổi, Ramachandran nói với tôi, ông đã xa lánh thể thao và các buổi tiệc tùng để theo đuổi hết đam mê này sang đam mê khác: cổ sinh vật học (ông thu thập những hóa thạch hiếm trong lĩnh vực này), khoa vỏ ốc sò (nghiên cứu về vỏ sò biển), côn trùng học (ông rất thích bọ cánh cứng), và thực vật học (ông thích trồng hoa lan). Tiểu sử của ông nằm rải rác trong văn phòng của ông, dưới dạng các vật thể tự nhiên tuyệt đẹp – hóa thạch, vỏ sò, côn trùng và hoa. Nếu ông không phải là một nhà thần kinh học, ông nói với tôi, thì ông sẽ là một nhà khảo cổ học nghiên cứu về Sumer cổ đại, Mesopotamia hoặc Thung lũng Indus.

Tìm hiểu về thời Victorian cho thấy sự yêu thích của ông đối với khoa học thời kỳ đó, thời kỳ hoàng kim của phân loại học (taxonomy), sử dụng mắt thường và công việc thám tử theo học thuyết Darwin để phân loại các biến thể và biến dị của thiên nhiên và đưa chúng vào các lý thuyết rộng lớn để giải thích các chủ đề tuyệt vời của thế giới sống.

Ramachandran tiếp cận thần kinh học theo cách tương tự. Trong nghiên cứu ban đầu của mình, ông đã kiểm tra những bệnh nhân bị ảo giác. Ông nghiên cứu những người sau khi bị chấn thương não, đã bắt đầu tin rằng họ là những nhà tiên tri, hoặc những người mắc hội chứng Capgras, tin rằng cha mẹ và người bạn đời của họ là kẻ mạo danh, là bản sao của những người thân của họ. Ông đã nghiên cứu ảo ảnh quang học và các điểm mù của mắt. Khi ông đang tìm kiếm điều gì đang xảy ra trong từng căn bệnh này— nói chung ông không sử dụng công nghệ hiện đại – ông đã làm sáng tỏ cách thức hoạt động của bộ não bình thường.

“Tôi khinh bỉ” ông nói “thiết bị phức tạp vì mất nhiều thời gian để học cách sử dụng và tôi nghi ngờ khi khoảng cách giữa dữ liệu thô và kết luận cuối cùng là quá xa. Bạn có rất nhiều cơ hội để nắn bóp dữ liệu đó, và con người rất dễ tự lừa dối mình, dù bạn có là nhà khoa học hay không.”

Ramachandran lấy ra một cái hộp vuông lớn có gương đứng bên trong hộp trông giống như trò ảo thuật của trẻ con. Sử dụng chiếc hộp này và những hiểu biết của mình về tính dẻo thần kinh, ông đã giải quyết được bí ẩn tồn tại hàng thế kỷ của chi ảo (phantom limbs) và nỗi đau dai dẳng mà chúng gây ra.

Có một loạt những nỗi đau ám ảnh hành hạ chúng ta vì những lý do mà ta không hiểu và chúng đến từ đâu ta cũng chẳng biết—những cơn đau không có địa chỉ gửi trả lại. Lord Nelson, đô đốc người Anh, bị mất cánh tay phải trong một cuộc tấn công vào Santa Cruz de Tenerife năm 1797. Ngay sau đó, Ramachandran chỉ ra, anh ta bắt đầu trải nghiệm sự hiện diện của cánh tay, một chi ảo mà anh ta có thể cảm thấy nhưng không nhìn thấy. Nelson kết luận rằng sự hiện diện của nó là “bằng chứng trực tiếp cho thấy sự tồn tại của linh hồn”, lý do rằng nếu một cánh tay có thể tồn tại sau khi bị loại bỏ, thì toàn bộ con người có thể tồn tại sau khi cơ thể bị hủy diệt.

Chi ảo gây rắc rối vì chúng làm phát sinh một “cơn đau ảo” kinh niên ở 95 phần trăm những người bị cụt chi và thường kéo dài suốt đời. Nhưng làm thế nào bạn loại bỏ được cơn đau trong một cơ quan mà không có trên cơ thể?

Những cơn đau ảo hành hạ những người lính bị cắt cụt chi và những người mất chi vì tai nạn, nhưng chúng cũng là một phần của một nhóm cơn đau kì lạ lớn hơn từng gây bối rối cho các bác sỹ trong nhiều thiên niên kỷ, vì ta không biết nguồn gốc của chúng trong cơ thể. Ngay cả sau khi phẫu thuật bình thường, một số người vẫn còn chịu cơn đau sau phẫu thuật bí ẩn kéo dài suốt đời. Các tài liệu khoa học về cơn đau bao gồm những câu chuyện về những phụ nữ bị đau bụng kinh và đau đẻ ngay cả khi tử cung đã được cắt bỏ, hay nhũng người đàn ông vẫn cảm thấy cơn đau viêm loét sau khi khối u và dây thần kinh của nó bị cắt bỏ, và những người đau trực tràng và trĩ mãn tính sau khi đã cắt bỏ trực tràng. Có những câu chuyện về những người bị cắt bỏ bàng quang vẫn cảm thấy tức tức khó chịu cần đi tiểu. Những tình tiết này có thể hiểu được nếu chúng ta nhớ lại rằng chúng cũng là những cơn đau ảo, kết quả của các bộ phận bên trong bị “cắt bỏ”.

Cơn đau bình thường, “cơn đau cấp tính”, cảnh báo chúng ta về chấn thương hoặc bệnh tật bằng cách gửi tín hiệu đến não, nói rằng “Đây là nơi bạn bị tổn thương – hãy chú ý đến nó.” Nhưng đôi khi một chấn thương có thể phá hủy cả các mô cơ thể và dây thần kinh trong hệ thống đau của chúng ta, gây ra “cơn đau thần kinh” mà không có nguyên nhân bên ngoài. Bản đồ cơn đau của chúng ta bị hư hỏng và liên tục báo động sai, khiến chúng ta tin rằng vấn đề nằm ở cơ thể trong khi nó nằm trong bộ não của chúng ta. Rất lâu sau khi cơ thể đã được chữa lành, hệ thống đau vẫn còn bắn điện và cơn đau cấp tính đã phát triển một cuộc sống sau khi đã chết.

Chi ảo lần đầu tiên được đề cập đến bởi Silas Weir Mitchell, một bác sĩ người Mỹ chăm sóc những người bị thương tại Gettysburg và hứng thú với dịch bệnh đau ảo. Chân và tay bị thương của những người lính trong Nội Chiến thường bị hoại tử, và trong thời kỳ trước khi biết đến thuốc kháng sinh, cách duy nhất để cứu mạng người lính là cắt cụt chân tay trước khi hoại tử lan rộng. Nhưng chẳng mấy chốc, những người bị cắt bỏ chi báo cáo rằng những chi của họ đã quay lại ám ảnh họ. Lúc đầu Mitchell gọi những trải nghiệm này là “bóng ma ảo giác,” sau đó chuyển sang gọi chúng là “những chi ảo.”

Chúng thường là những thực thể rất sống động. Bệnh nhân bị mất cánh tay đôi khi có thể cảm thấy họ khoa chân múa tay khi họ nói chuyện, vẫy tay chào bạn bè hoặc với tay một cách tự phát để nghe điện thoại.

Một số bác sỹ cho rằng chi ảo là sản phẩm của lối suy nghĩ ước ao— một sự phủ nhận của sự mất chi đau đớn. Nhưng hầu hết đều cho rằng các đầu dây thần kinh ở đầu gốc của chi bị mất đang bị kích thích hoặc bị kích thích bởi chuyển động. Một số bác sĩ đã cố gắng xử lý chi ảo bằng cách cắt cụt tiếp, cắt đứt chân tay – và dây thần kinh – ngày càng xa hơn, hy vọng chi ảo có thể biến mất. Nhưng sau mỗi ca phẫu thuật nó lại xuất hiện.

Ramachandran đã tò mò về chi ảo khi còn học trường y. Sau đó vào năm 1991, ông đã đọc bài báo của Tim Pons và Edward Taub về những cuộc giải phẫu cuối cùng trên những con khỉ Silver Spring. Bạn hãy nhớ lại, Pons đã lập bản đồ não bộ của những con khỉ có đầu vào cảm giác từ cánh tay đến não của chúng bị loại bỏ do sự chặn xung động thần kinh tới và phát hiện thấy bản đồ não cho cánh tay, thay vì suy yếu, đã trở nên năng động và xử lý cả thông tin đầu vào từ khuôn mặt— đúng như kỳ vọng vì, như Wilder Penfield đã chỉ ra, các bản đồ tay và mặt nằm cạnh nhau.

Ramachandran ngay lập tức nghĩ rằng tính dẻo thần kinh có thể giải thích cho các chi ảo vì những con khỉ của Taub và các bệnh nhân với cánh tay ảo đều giống nhau. Bản đồ não bộ của khỉ và các bệnh nhân đều bị mất đi các kích thích đến từ các chi của họ. Có khả năng là bản đồ khuôn mặt của những người bị cắt bỏ chi đã xâm chiếm bản đồ não của cánh tay đã mất của họ, cho nên khi người cụt chi chạm vào khuôn mặt, anh ta cảm nhận được cánh tay ảo của mình chăng? Ramachandran tự hỏi, những con khỉ của Taub cảm nhận được chi ảo của chúng ở đâu khi mặt chúng bị đột quỵ— trên khuôn mặt của chúng, hay trong cánh tay “bị chặn xung động thần kinh tới” của chúng?

Tom Sorenson — một bút danh — bị mất cánh tay trong một vụ tai nạn ô tô khi chỉ mới mười bảy tuổi. Khi bị hất lên không trung, anh ngoái nhìn lại và thấy tay mình, bị cắt đứt khỏi cơ thể, vẫn bám chặt lấy đệm ghế. Những gì còn lại của cánh tay anh phải cắt bỏ ngay trên khuỷu tay.

Khoảng bốn tuần sau, anh nhận thấy một cái chi ảo đã làm nhiều việc mà cánh tay của anh trước đây từng làm. Nó vươn ra theo phản xạ khi bị té ngã hoặc vỗ về cậu em trai. Tom còn có ​​các triệu chứng khác, bao gồm một triệu chứng khiến anh thực sự khó chịu. Anh bị ngứa ở bàn tay ảo mà anh ta không thể gãi.

Ramachandran được cho biết về việc cắt chi của Tom từ các đồng nghiệp và yêu cầu được làm việc với anh ta. Để kiểm tra lý thuyết của mình rằng chi ảo bị gây ra bởi những bản đồ não được thiết lập lại, ông đã bịt mắt Tom. Rồi ông vuốt ve phần thân trên của Tom bằng một Q-tip, hỏi Tom có cảm giác gì. Khi ông vuốt bên má của Tom, anh nói là cảm nhận được cái vuốt trên má nhưng cũng cảm nhận được nó ở trong chi ảo của anh. Khi Ramachandran vuốt môi trên của Tom, anh cũng cảm nhận được nó ở đó nhưng cũng cảm nhận được nó ở ngón trỏ của bàn tay ảo của anh. Ramachandran phát hiện thấy khi ông chạm vào những phần khác của khuôn mặt Tom, Tom cũng cảm nhận được ở những phần khác của bàn tay ảo của anh. Khi Ramachandran nhỏ một giọt nước âm lên má của Tom, anh cảm nhận một tia nước ấm chảy xuống mà và cũng chảy xuống cả chi ảo của anh. Rồi sau một vài thử nghiệm, Tom phát hiện ra cuối cùng anh ta có thể gãi được cơn ngứa không thể gãi đã làm anh ta đau đớn quá lâu bằng cách gãi má.

Sau thành công của Ramachandran với Q-tip, ông đã thực hiện một công nghệ cao với một máy chụp não gọi là MEG, hay từ não đồ. Khi ông vẽ bản đồ não của cánh tay và bàn tay của Tom, bản chụp não xác nhận rằng bản đồ bàn tay của Tom hiện giờ được dùng để xử lý các cảm giác trên khuôn mặt. Bản đồ tay và mặt của anh đã nhập vào nhau.

Phát hiện của Ramachandran trong trường hợp Tom Sorenson, lúc đầu gây tranh cãi giữa các nhà thần kinh học lâm sàng, những người nghi ngờ bản đồ não có tính dẻo, hiện đã được chấp nhận rộng rãi. Các nghiên cứu chụp não bộ của nhóm nghiên cứu Đức mà Taub hợp tác cũng đã xác nhận mối tương quan giữa mức độ thay đổi tính dẻo và mức độ của cơn đau ảo mà con người trải nghiệm.

Ramachandran ngờ rằng một lý do sự xâm lấn bản đồ xảy ra là vì bộ não “mọc ra” những liên kết mới. Khi một phần cơ thể bị mất, ông tin rằng, bản đồ não vẫn còn sống của phần cơ thể ấy “đói” kích thích và phóng thích yếu tố tăng trưởng thần kinh để mời gọi các nơ-ron từ các bản đồ não gần đó gửi chút mầm nhỏ vào chúng.

Thông thường những mầm nhỏ này liên kết với các dây thần kinh tương tự; những dây thần kinh xúc giác liên kết với những dây thần kinh xúc giác khác. Nhưng da của chúng ta truyền tải nhiều thứ hơn chứ không chỉ mỗi xúc giác; nó có các thụ thể riêng biệt để phát hiện nhiệt độ, sự rung động và đau đớn, mỗi loại có các sợi thần kinh riêng đi lên não, nơi chúng có bản đồ riêng, một số nằm rất gần nhau. Đôi khi sau một chấn thương, vì các dây thần kinh xúc giác, nhiệt độ và đau đớn nằm rất gần nhau, nên chúng có thể mắc phải lỗi nối dây/các dây đan chéo nhau. Điều đó khiến Ramachandran tự hỏi, liệu trong trường hợp mắc lỗi nối dây, khi một người bị chạm vào thì có cảm giác đau hoặc ấm áp không? Liệu một người được chạm nhẹ vào mặt có thể cảm thấy đau ở một cánh tay ảo?

Một lý do khác khiến chi ảo rất khó đoán và gây ra nhiều rắc rối là bản đồ não rất năng động và luôn thay đổi: ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, như Merzenich chỉ ra, bản đồ khuôn mặt có xu hướng di chuyển một chút trong não. Bản đồ chi ảo di chuyển vì đầu vào của chúng đã bị thay đổi hoàn toàn. Ramachandran và những người khác – Taub và các đồng nghiệp của ông ta— đã cho thấy với nhiều hình ảnh chụp bản đồ não các đường nét của chi ảo và các bản đồ của chúng liên tục thay đổi. Ông ấy nghĩ rằng một lý do khiến mọi người bị đau ảo là khi một chi bị cắt, bản đồ não của nó không chỉ co lại mà còn trở nên vô tổ chức và không còn hoạt động hiệu quả.

Không phải mọi cơn đau ảo đều gây đau đớn. Sau khi Ramachandran công bố những khám phá của mình, những người bị cụt chi đã tìm kiếm ông ta. Nhiều người bị cụt chân đã thông báo, với nhiều xấu hổ, rằng khi họ quan hệ tình dục, họ thường trải nghiệm cực khoái ở chân và bàn chân ảo của họ. Một người đàn ông thú nhận rằng vì chân và bàn chân của anh ta lớn hơn nhiều so với bộ phận sinh dục của anh ta, nên cực khoái “lớn hơn nhiều” so với trước đây.

Mặc dù những bệnh nhân như vậy có thể đã từng bị bác bỏ vì có trí tưởng tượng quá phong phú, Ramachandran lại cho rằng tuyên bố này vô cùng hợp lý về mặt khoa học thần kinh. Bản đồ não Penfield cho thấy bộ phận sinh dục nằm bên cạnh bàn chân, và vì bàn chân không còn nhận được thông tin đầu vào, nên bản đồ bộ phận sinh dục có khả năng xâm chiếm bản đồ bàn chân, vì vậy khi bộ phận sinh dục trải nghiệm khoái cảm, thì chân ảo cũng vậy. Ramachandran bắt đầu tự hỏi liệu ám ảnh khiêu dâm của một số người với bàn chân, hay sự tôn sùng bàn chân, có thể một phần do bàn chân nằm gần bộ phận sinh dục trên bản đồ não.

Những bí ẩn khiêu dâm khác bắt đầu rõ ràng. Một bác sĩ người Ý, Tiến sĩ Salvatore Aglioti, đã thông báo rằng một số phụ nữ bị cắt bỏ vú có trải nghiệm hưng phấn tình dục khi tai, xương đòn và xương ức của họ được kích thích. Cả ba đều gần núm vú trên bản đồ não. Một số đàn ông bị ung thư biểu mô dương vật đã làm phẫu thuật cắt bỏ dương vật không chỉ có trải nghiệm dương vật ảo mà cả sự cương cứng ảo.

Khi Ramachandran kiểm tra nhiều người bị cụt chi, ông phát hiện thấy khoảng một nửa trong số họ có cảm giác khó chịu vì chi ảo của họ bị tê liệt, treo ở vị trí liệt cố định, hoặc bị bó bột. Những người khác thì có cảm giác đang đeo bên mình một gánh nặng vô tích sự. Và hình ảnh của các chi bị tê liệt không chỉ co cứng theo thời gian, mà trong một số trường hợp khủng khiếp, nỗi đau đớn của việc mất chi lúc đầu đã bị khóa chặt. Khi lựu đạn nổ tung trong tay những người lính, chúng có thể gây ra một cơn đau ảo lặp đi lặp lại dai dẳng của vụ nổ. Ramachandran gặp một phụ nữ có ngón tay cái tê cứng bị cắt cụt và ngón tay ảo tê liệt gây đau tại chỗ đó. Những người bị tra tấn bởi những ký ức ảo của chứng hoại tử, móng chân mọc vào, mụn nước và những vết cắt ở chân, tay trước khi chúng bị cắt cụt, đặc biệt nếu cơn đau tồn vào thời điểm làm phẫu thuật cắt cụt. Những bệnh nhân trải nghiệm những cơn đau như vậy không phải là “các ký ức” mờ nhạt về cơn đau mà chúng đang xảy ra trong hiện tại. Đôi khi một bệnh nhân có thể không bị đau trong nhiều thập kỷ, và sau đó một sự kiện xảy ra, có thể là kim đâm vào điểm kích hoạt, kích hoạt lại cơn đau kéo dài hàng tháng hoặc nhiều năm sau đó.

Khi Ramachandran xem lại tiền sử của những người có cánh tay bị tê liệt gây đau, ông phát hiện ra tất cả họ đều có cánh tay trong những chiếc đai hoặc bó bột trong vài tháng trước khi bị cắt cụt chi. Bản đồ não của họ bây giờ dường như ghi lại, trong mọi thời điểm, vị trí cố định của cánh tay ngay trước khi bị cắt cụt. Ông bắt đầu nghi ngờ rằng chính chi không còn tồn tại đã kéo dài cảm giác tê liệt. Thông thường, khi trung tâm điều khiển vận động trong não gửi một lệnh di chuyển cánh tay, bộ não sẽ nhận được phản hồi từ nhiều giác quan khác nhau, xác nhận rằng mệnh lệnh đã được thực hiện. Nhưng bộ não của một người không có chân/ tay không bao giờ nhận được phản hồi xác nhận rằng cánh tay đã di chuyển, vì không có cánh tay cũng như các cảm biến chuyển động trong cánh tay để cung cấp phản hồi đó. Do đó, não để lại ấn tượng rằng cánh tay bị đóng băng. Bởi vì cánh tay đã bị mắc kẹt trong một cái khuôn hoặc dây đeo hàng tháng trời, bản đồ não đã phát triển một biểu tượng của cánh tay bị bất động. Khi cánh tay bị cắt bỏ, không có thông tin đầu vào mới nào để làm thay đổi bản đồ não, do đó biểu tượng tinh thần của chi/cánh tay theo thời gian đã bị ấn định— một tình huống giống với sự tê liệt do học được mà Taub phát hiện ở những bệnh nhân đột quỵ.

Ramachandran đã tin rằng sự vắng mặt của thông tin phản hồi không chỉ gây ra các chi ảo co cứng mà cả nỗi đau ảo. Trung tâm vận động của bộ não có thể gửi mệnh lệnh cho các cơ bàn tay co lại, nhưng không nhận được phản hồi xác nhận bàn tay đã cử động, bèn tiếp tục gửi nhiều mệnh lệnh, giả dụ như hét lên rằng: “Nắm chặt lại đi! Bạn vẫn nắm chưa đủ chặt! Bạn vẫn chưa chạm vào lòng bàn tay! Hãy nắm chặt hết mức có thể!” Những bệnh nhân này có cảm giác móng tay đang đâm sâu vào lòng bàn tay của họ. Mặc dù nắm chặt tay thực sự gây đau đớn khi cánh tay hiện diện, thì việc tưởng tượng đang nắm chặt tay cũng kích hoạt đau đớn vì sự co thắt cực độ và đau đớn được liên kết với nhau trong trí nhớ.

Ramachandran hỏi tiếp một câu hỏi táo bạo; liệu sự tê liệt ảo và đau đớn ảo có thể “loại bỏ được” hay không. Đây là loại câu hỏi mà các bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học và nhà phân tâm học có thể hỏi: làm sao một người có thể thay đổi được một tình huống thiên về tinh thần chứ không phải thực tại vật chất? Nghiên cứu của Ramachandran bắt đầu xóa nhòa ranh giới giữa thần kinh học và tâm thần học, giữa thực tế và ảo tưởng.

Ramachandran sau đó đã nảy ra một ý tưởng giống thầy phù thủy, là chống lại một ảo tưởng bằng một ảo tưởng khác. Điều gì sẽ xảy ra nếu ông ta có thể gửi các tín hiệu sai đến não bộ để khiến bệnh nhân tưởng rằng chân tay không tồn tại đang cử động?

Câu hỏi đó đã khiến ông phát minh ra một hộp gương, được thiết kế để đánh lừa bộ não của bệnh nhân. Nó sẽ cho anh ta nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bàn tay tuyệt vời của anh ta để khiến anh ta tin rằng bàn tay bị cắt cụt của anh ta đã được “hồi sinh.”

Hộp gương có kích thước của một hộp bánh lớn, không có đỉnh và được chia thành hai ngăn, một ngăn bên trái và một bên phải. Có hai lỗ ở phía trước của hộp. Nếu tay bên trái của bệnh nhân bị cắt cụt thì anh ta đặt bàn tay phải của mình qua lỗ và vào khoang bên phải. Sau đó anh ta được yêu cầu tưởng tượng đang đặt bàn tay ảo của anh vào ngăn bên trái. Dải phân cách ngăn cách hai ngăn là một tấm gương thẳng đứng đối diện với bàn tay. Vì không có đỉnh trên hộp, bệnh nhân có thể, bằng cách nghiêng một chút sang phải, nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bàn tay phải của anh ta, dường như sẽ là bàn tay trái của anh ta trước khi bị cắt cụt. Khi anh ta di chuyển bàn tay phải qua lại, bàn tay trái “hồi sinh” của anh ta cũng sẽ xuất hiện để di chuyển qua lại, chồng lên tay ảo của anh. Ramachandran hy vọng bộ não của bệnh nhân có thể có ấn tượng rằng cánh tay ảo đang di chuyển.

Để tìm đối tượng để kiểm tra chiếc hộp gương của mình, Ramachandran đã chạy mẩu quảng cáo khó hiểu trên các tờ báo địa phương với nội dung: “Cần người bị khuyết tật chân/tay.” “Philip Martinez” đáp lại. Cách đây một thập kỷ, Philip bị quăng mạnh từ xe mô tô trong khi đang chạy với tốc độ bốn mươi lăm dặm một giờ. Các dây thần kinh dẫn từ tay trái và cánh tay đến cột sống của anh ta bị xé toạc do tai nạn. Cánh tay của anh ta vẫn được gắn vào cơ thể anh ta, nhưng không có dây thần kinh nào hoạt động để gửi tín hiệu từ cột sống đến cánh tay của anh ta, và không có dây thần kinh nào đi vào cột sống để truyền cảm giác đến não của anh ta. Cánh tay của Philip trở thành thứ gây khó chịu vì vô dụng, một gánh nặng bất động mà anh phải giữ trong một chiếc địu, và cuối cùng anh đã chọn cách cắt bỏ cánh tay. Nhưng anh vẫn còn cơn đau ảo khủng khiếp ở khuỷu tay ảo. Cánh tay ảo cũng có cảm giác tê liệt, và anh ta cảm thấy nếu bằng cách nào đó mà anh cử động được nó thì anh có thể làm giảm cơn đau. Tình thế khó xử này khiến anh trầm uất đến độ đã nghĩ tới chuyện tự tử.

Khi Philip đặt cánh tay vào hộp gương, anh ta không chỉ “nhìn thấy” “cánh tay ảo” của mình cử động mà lần đầu tiên anh còn cảm nhận được sự cử động của nó. Kinh ngạc và tràn đầy niềm vui, Philip cho biết anh có cảm giác cánh tay ảo của mình “như được nối lại.”

Nhưng khi anh không nhìn vào hình ảnh phản chiếu hay nhắm mắt lại, chi ảo tê cứng. Ramachandran đưa hộp gương cho Philip mang về nhà, để luyện tập với nó, hy vọng rằng Philip có thể loại bỏ được sự tê liệt của anh ấy bằng cách kích thích một sự thay đổi tính dẻo sẽ thiết lập lại bản đồ não bộ của anh. Philip sử dụng chiếc hộp mười phút mỗi ngày, nhưng dường như nó chỉ hoạt động khi anh mở mắt, nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bàn tay anh.

Sau bốn tuần Ramachandran nhận được một cuộc gọi hào hứng từ Philip. Cánh tay ảo của anh không những hết tê cứng, mà nó đã biến mất — ngay cả khi anh không sử dụng cái hộp. Khuỷu tay ma quái và cơn đau nhức nhối của nó đã thành dĩ vãng. Giờ chỉ còn lại những ngón tay ảo không gây đau, treo lủng lắng trên vai anh.

V. S. Ramachandran, nhà ảo thuật thần kinh, đã trở thành bác sĩ đầu tiên thực hiện một ca phẫu thuật tưởng chừng bất khả thi: cắt cụt thành công một chi ảo. Ramachandran đã sử dụng chiếc hộp của mình với một số bệnh nhân, khoảng một nửa trong số họ đã mất cơn đau ảo, loại bỏ sự tê cứng những chi ảo của họ, và bắt đầu có cảm giác kiểm soát được chúng. Các nhà khoa học khác cũng đã phát hiện ra những bệnh nhân luyện tập với hộp gương trở nên tốt hơn. Quét não fMRI cho thấy khi những bệnh nhân này cải thiện, những bản đồ não vận động cho “các chi ảo của họ lớn thêm, bản đồ co rút sau phẫu thuật cắt cụt bị đảo ngược, và bản đồ cảm giác và vận động bình thường hóa trở lại.

Chiếc hộp gương tỏ ra chữa được cơn đau bằng cách thay đổi nhận thức về hình ảnh cơ thể của bệnh nhân. Đây là một khám phá đáng chú ý vì nó làm sáng tỏ cả về cách thức hoạt động của tâm trí và cách chúng ta trải nghiệm nỗi đau.

Cơn đau và hình ảnh cơ thể có liên quan chặt chẽ với nhau. Chúng ta luôn luôn có cảm giác đau khi phóng chiếu lên cơ thể. Khi bạn vứt bỏ cái lưng của bạn, bạn nói, “Cái lưng của tôi đang giết chết tôi!” chứ không nói, “Hệ thống đau đang giết chết tôi.” Nhưng như các chi ảo cho thấy, chúng ta không cần một bộ phận cơ thể hoặc thậm chí các thụ thể đau để cảm thấy đau. Chúng ta chỉ cần một hình ảnh cơ thể, được tạo ra bởi bản đồ não của chúng ta. Những người có chân tay thường không nhận ra điều này, bởi vì hình ảnh cơ thể của các chi của chúng ta được chiếu hoàn hảo lên các chi thật của chúng ta, khiến chúng ta không thể phân biệt hình ảnh cơ thể của chúng ta với cơ thể của chúng ta. “Cơ thể của bạn chính là một bóng ma,” Ramachandran nói, “một ảo ảnh mà bộ não của bạn đã dựng nên hoàn toàn vì sự tiện lợi.”

Những hình ảnh cơ thể bị bóp méo là phổ biến và cho thấy có sự khác biệt giữa hình ảnh cơ thể và bản thân cơ thể. Người mắc chứng biếng ăn (Anorexics) cảm nhận cơ thể họ là béo phì trong khi họ đang có nguy cơ chết đói; hay những người có hình ảnh cơ thể bị bóp méo, một tình trạng được gọi là “mặc cảm ngoại hình” (body dysmorphic disorder) có thể xem một bộ phận cơ thể nào đó dù hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn là xấu/khiếm khuyết. Họ nghĩ rằng tai, mũi, môi, vú, dương vật, âm đạo hoặc đùi của họ quá lớn hoặc quá nhỏ hoặc “xấu” và họ cảm thấy vô cùng xấu hổ. Marilyn Monroe xem bản thân cô là mắc nhiều khiếm khuyết về cơ thể. Những người như vậy thường tìm đến phẫu thuật thẩm mỹ nhưng vẫn cảm thấy cơ thể méo mó sau những ca phẫu thuật của họ. Thứ họ cần làm là “phẫu thuật thần kinh” để thay đổi hình ảnh cơ thể của họ. Thành công của Ramachandran với việc điều chỉnh lại chi ảo gợi ý cho ông rằng có thể tìm được những cách thức nhằm điều chỉnh lại hình ảnh cơ thể bị bóp méo. Để hiểu rõ hơn ý ông là gì khi đề cập đến hình ảnh cơ thể, tôi đề nghị ông thử chứng minh sự khác nhau giữa chúng, một cấu trúc tinh thần và một cơ thể vật lý.

Lấy ra loại bàn tay cao su giả được bán trong các cửa hàng bán đồ độc lạ, ông để tôi ngồi trước một cái bàn và đặt bàn tay giả lên đó, các ngón tay của nó song song với cạnh bàn trước mặt tôi, cách mép một inch. Ông ấy bảo tôi đặt tay lên bàn, song song với bàn tay giả, nhưng cách mép bàn khoảng tám inch. Tay tôi và bàn tay giả được căn chỉnh hoàn hảo, chỉ cùng một hướng. Sau đó, ông ta đặt một tấm màn hình giữa bàn tay giả và bàn tay của tôi, để tôi chỉ có thể nhìn thấy bàn tay giả.

Tôi chăm chú quan sát ông vuốt ve bàn tay giả. Đồng thời ông vuốt ve bàn tay của tôi, khuất sau màn hình. Khi ông ấy vuốt ngón tay cái giả, ông cũng vuốt ve ngón tay cái của tôi. Khi ông ấy gõ nhẹ vào ngón tay cái giả ba lần, ông cũng gõ nhẹ vào ngón tay cái của tôi ba lần, theo cùng một nhịp. Khi ông vuốt ve ngón giữa giả, ông vuốt ve ngón giữa của tôi.

Trong phút chốc, cảm giác bàn tay của tôi được vuốt ve đột nhiên biến mất, và tôi bắt đầu có cảm giác tôi được vuốt ve như thể đến từ bàn tay giả. Bàn tay giả đã trở thành một phần của hình ảnh cơ thể tôi! Ảo giác này vận hành theo nguyên tắc tương tự từng đánh lừa chúng ta tưởng rằng những con búp bê nói bằng bụng hoặc phim hoạt hình hoặc các diễn viên trong phim thực sự đang nói chuyện vì đôi môi cử động đồng bộ với âm thanh.

Sau đó Ramachandran thực hiện một thủ thuật thậm chí còn đơn giản hơn. Ông ấy bảo tôi đặt tay phải dưới gầm bàn, để tay tôi bị giấu đi. Sau đó ông gõ lên mặt bàn bằng một tay, còn tay kia ông gõ lên tay của tôi để ở dưới bàn mà tôi không thể nhìn thấy nó, theo cùng một nhịp giống nhau. Khi ông ta di chuyển vị trí gõ trên mặt bàn, sang trái hoặc phải một chút, ông cũng di chuyển bàn tay ông ở dưới bàn giống hệt như vậy. Sau vài phút, tôi không còn cảm giác ông đang gõ lên tay tôi dưới gầm bàn, mà thay vào đó— thật tuyệt vời— bắt đầu cảm thấy rằng hình ảnh cơ thể của bàn tay tôi đã hợp nhất với mặt bàn, do đó cảm giác bị gõ dường như đến từ mặt bàn. Ông ta đã tạo ra một ảo ảnh trong đó hình ảnh cơ thể cảm giác của tôi giờ đã được mở rộng bao gồm cả một mảnh đồ nội thất!

Ramachandran kết nối các đối tượng với một máy đo phản ứng ngoài da để đo phản ứng căng thẳng trong thí nghiệm bàn này.

Sau khi vuốt ve mặt bàn và bàn tay của một bệnh nhân đặt dưới bàn cho đến khi hình ảnh cơ thể của anh ta hợp nhất với cái bàn, ông ta sẽ lấy búa ra và đập vào mặt bàn. Phản ứng căng thẳng của đối tượng tăng vọt, cứ như thể Ramachandran đã đập nát bàn tay thật của đối tượng.

Theo Ramachandran, sự đau đớn, cũng giống như hình ảnh cơ thể, được tạo ra bởi bộ não và phóng chiếu lên cơ thể. Khẳng định này trái với lẽ thường và quan điểm thần kinh truyền thống về nỗi đau cho rằng khi chúng ta bị tổn thương, các thụ thể đau của chúng ta gửi tín hiệu một chiều đến trung tâm (cảm nhận) đau của não và cường độ đau được cảm nhận tỷ lệ thuận với mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Chúng ta cho rằng nỗi đau luôn luôn báo cáo tổn hại chính xác. Quan điểm truyền thống này bắt nguồn từ triết gia Descartes, người đã xem bộ não là một người nhận thụ động của nỗi đau. Nhưng quan điểm đó đã bị lật đổ vào năm 1965, khi các nhà thần kinh học Ronald Melzack (một người Canada nghiên cứu về chi ma và nỗi đau) và Patrick Wall (một người Anh nghiên cứu về nỗi đau và tính dẻo thần kinh) đã viết bài báo quan trọng nhất trong lịch sử về nỗi đau. Lý thuyết của Wall và Melzack đã khẳng định rằng hệ thống (cảm nhận) đau lan truyền khắp não và tủy sống, và không phải là một người (cảm nhận) thụ động cơn đau, mà bộ não luôn luôn kiểm soát các tín hiệu đau mà chúng ta cảm nhận.

“Lý thuyết về cổng kiểm soát cơn đau” của họ đề xuất một loạt biện phảo để kiểm soát, hoặc “cổng” giữa vị trí bị chấn thương và bộ não. Khi các thông điệp đau được gửi từ mô bị tổn thương qua hệ thống thần kinh, chúng sẽ đi qua một số “cổng”, bắt đầu từ tủy sống, trước khi chúng đến bộ não. Nhưng những thông điệp này chỉ truyền đi nếu bộ não “cho phép” sau khi xác định chúng đủ quan trọng để được thông qua. Nếu được phép, một cánh cổng sẽ mở ra và làm tăng cảm giác đau đớn bằng cách cho phép một số tế bào thần kinh nhất định bật lên và truyền tín hiệu của chúng. Bộ não cũng có thể đóng một cánh cổng và chặn tín hiệu đau bằng cách giải phóng endorphin, chất ma túy do cơ thể tạo ra để dập tắt cơn đau.

Lý thuyết cổng làm sáng tỏ mọi kiểu trải nghiệm đau. Chẳng hạn, khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào Ý trong Thế chiến II, 70 phần trăm những người bị thương nặng đã báo cáo rằng họ không bị đau và không cần thuốc giảm đau. Những người đàn ông bị thương trên chiến trường thường không cảm thấy đau đớn và họ vẫn tiếp tục chiến đấu; cứ như thể bộ não đã đóng lại “cánh cổng” để họ tập trung chú ý tìm cách thoát thân khỏi chốn nguy hiểm. Chỉ khi anh ta an toàn thì các tín hiệu đau mới được phép truyền đến não.

Các bác sĩ từ lâu đã biết rằng một bệnh nhân mong đợi được giảm đau từ một viên thuốc thường là một giả dược, không chứa thuốc. Quét não fMRI cho thấy trong hiệu ứng giả dược, bộ não sẽ giảm các vùng phản ứng đau của chính nó. Khi một bà mẹ xoa dịu đứa con bị tổn thương của mình, bằng cách vuốt ve và nói chuyện ngọt ngào với cô ấy, bà ấy đang giúp bộ não đứa trẻ giảm âm lượng nỗi đau của nó. Nỗi đau mà chúng ta cảm nhận được quyết định một phần đáng kể bởi bộ não và tâm trí của chúng ta – tâm trạng hiện tại của chúng ta, trải nghiệm đau đớn trong quá khứ, tâm lý của chúng ta và chúng ta nghĩ rằng chấn thương của mình nghiêm trọng như thế nào.

Wall và Melzack chỉ ra các tế bào thần kinh trong hệ thống đau của chúng ta dẻo hơn nhiều so với chúng ta tưởng tượng, rằng các bản đồ đau quan trọng trong tủy sống có thể thay đổi sau chấn thương, và một chấn thương mãn tính có thể khiến các tế bào trong hệ thống đau dễ cháy hơn – một sự thay đổi tính dẻo – khiến cho một người quá nhạy cảm với nỗi đau. Bản đồ cũng có thể phóng to lĩnh vực tiếp nhận của chúng, đại diện nhiều hơn bề mặt của cơ thể, làm tăng độ nhạy cảm đau. Khi các bản đồ thay đổi, tín hiệu đau trong một bản đồ có thể “tràn” vào các bản đồ đau liền kề và chúng ta có thể phát triển “cơn đau lan”, khi chúng ta bị chấn thương ở một bộ phận cơ thể nhưng lại cảm thấy đau ở một bộ phận khác. Đôi khi một tín hiệu đau duy nhất dội lại trong não, do đó cơn đau vẫn kéo dài ngay cả sau khi kích thích ban đầu của nó đã dừng lại.

Lý thuyết cổng đưa đến các phương pháp điều trị mới để ngăn chặn cơn đau. Wall đồng phát minh ra “Kích ứng thần kinh dưới da bằng xung điện,” hay TENS, sử dụng dòng điện để kích thích tế bào thần kinh ức chế cơn đau,  tác dụng đóng cổng. Lý thuyết cổng cũng khiến các nhà khoa học phương Tây bớt hoài nghi về châm cứu, giúp giảm đau bằng cách kích thích các điểm của cơ thể thường cách xa vị trí đau. Có vẻ như châm cứu đã bật các tế bào thần kinh ức chế cơn đau, đóng cổng và ngăn chặn cảm nhận đau.

Melzack và Wall có một cái nhìn sâu sắc mang tính cách mạng khác: hệ thống đau bao gồm các thành phần vận động. Khi chúng ta cắt một ngón tay, chúng ta theo phản xạ siết chặt nó, một hành động vận động. Chúng ta theo bản năng bảo vệ mắt cá chân bị thương bằng cách tìm một vị trí an toàn. Các mệnh lệnh bảo vệ, “Đừng di chuyển một cơ bắp cho đến khi mắt cá chân đó tốt hơn.

Mở rộng lý thuyết cổng, Ramachandran đã phát triển ý tưởng tiếp theo của mình: rằng nỗi đau là một hệ thống phức tạp dưới sự kiểm soát của bộ não ni-lông. Ông tóm tắt điều này như sau: “Đau là một quan điểm ​​về tình trạng sức khỏe của sinh vật chứ không phải là một phản ứng đơn thuần đối với chấn thương.” Bộ não thu thập bằng chứng từ nhiều nguồn trước khi kích hoạt cơn đau. Ông cũng nói rằng “nỗi đau là một ảo giác” và “tâm trí của chúng ta là một cỗ máy thực tế ảo”, trải nghiệm thế giới một cách gián tiếp và xử lý nó ngay lập tức, xây dựng một mô hình trong đầu chúng ta. Vì vậy, nỗi đau, giống như hình ảnh cơ thể, là một cấu trúc của bộ não của chúng ta. Khi Ramachandran có thể sử dụng hộp gương của ông để sửa đổi hình ảnh cơ thể và loại bỏ một bóng ma và nỗi đau của nó, liệu ông ta cũng có thể sử dụng hộp gương để khiến cơn đau mãn tính ở một chi thật biến mất?

Ramachandran cho rằng ông ta có thể chữa khỏi “cơn đau mãn tính loại 1”, gặp phải trong chứng rối loạn gọi là “loạn trương lực giao cảm phản xạ”. Điều này xảy ra khi một vết thương nhỏ, vết bầm tím hoặc vết côn trùng cắn trên đầu ngón tay khiến cho toàn bộ chi bị đau đớn đến mức “tự bảo vệ” ngăn bệnh nhân không di chuyển. Tình trạng này có thể kéo dài sau chấn thương ban đầu và thường trở thành mãn tính, kèm theo cảm giác đau rát và đau đớn khi chạm nhẹ hoặc vuốt ve da. Ramachandran đặt ra giả thuyết rằng khả năng tự phục hồi tính dẻo của não bộ đã dẫn đến một hình thức tự vệ bệnh lý.

Khi chúng ta tự bảo vệ, chúng ta ngăn không cho cơ bắp của ta cử động, di chuyển và làm chấn thương của ta nặng thêm. Nếu chúng ta phải dùng ý thức để nhắc nhở bản thân không được di chuyển thì chúng ta sẽ kiệt sức và mắc lỗi, làm tổn thương bản thân và cảm thấy đau. Ramachandran nghĩ, giả sử bây giờ bộ não ngăn chặn chuyển động nhầm bằng cách kích hoạt cơn đau ngay trước khi chuyển động diễn ra, giữa thời điểm khi trung tâm vận động phát mệnh lệnh di chuyển và thời điểm khi thực hiện di chuyển. Còn cách nào tốt hơn để bộ não ngăn cản sự chuyển động hơn là đảm bảo rằng mệnh lệnh chuyển động sẽ kích hoạt đau đớn? Ramachandran tin rằng ở những bệnh nhân đau mãn tính này, lệnh vận động đã được kết nối vào hệ thống đau, do đó mặc dù chân tay đã lành, nhưng khi bộ não gửi lênh vận động để di chuyển cánh tay thì nó vẫn gây ra đau.

Ramachandran gọi đây là “cơn đau do học được” và tự hỏi liệu chiếc hộp gương có thể giúp thoát khỏi nó. Tất cả các phương pháp chữa trị truyền thống đã được thử trên những bệnh nhân này — làm gián đoạn kết nối thần kinh đến vùng bị đau, vật lý trị liệu, thuốc giảm đau, châm cứu và nắn xương— không có kết quả. Trong một nghiên cứu được thực hiện bởi một nhóm bao gồm Patrick Wall, bệnh nhân được hướng dẫn đặt cả hai tay vào hộp gương, vị trí ngồi để anh ta không chỉ nhìn thấy cánh tay của mình mà còn thấy cả hình ảnh phản chiếu của nó trong gương. Sau đó, bệnh nhân di chuyển cánh tay của mình theo bất cứ cách nào anh ta chọn (và di chuyển cả cánh tay bị ảnh hưởng của anh ta nếu có thể) trong hộp khoảng 10 phút, vài lần một ngày, trong vài tuần. Có thể sự phản chiếu cánh tay vận động xảy ra mà không cần mệnh lệnh chuyển động kích hoạt nó, đã đánh lừa bộ não của bệnh nhân nghĩ rằng cánh tay bị tổn thương của anh ta có thể di chuyển tự do mà không bị đau, hoặc có lẽ bài tập này đã cho phép bộ não biết rằng việc bảo vệ không còn cần thiết nữa, vì vậy nó sẽ ngắt kết nối nơ-ron giữa lệnh vận động để di chuyển cánh tay và hệ thống đau.

Những bệnh nhân mắc hội chứng đau đã cải thiện chỉ sau hai tháng. Ngày đầu tiên cơn đau giảm bớt và sự giảm đau kéo dài ngay cả sau khi một phiên trị liệu với hộp gương kết thúc. Sau một tháng họ không còn đau nữa. Những bệnh nhân mắc hội chứng từ năm tháng đến một năm thì không khá hơn, nhưng chân tay họ không còn bị cứng đờ nữa và có thể làm việc trở lại. Những người bị đau lâu hơn hai năm thì không đỡ hơn.

Tại sao vậy? Một ý kiến cho rằng những bệnh nhân bị đau lâu năm nãy đã không cử động các chi được bảo vệ của họ quá lâu đến nỗi bản đồ não vận động của chi bị bảo vệ bắt đầu bị suy yếu, lụi tàn — một lần nữa lại là nguyên tắc sử dụng nó hay đánh mất nó.

Tất cả những gì còn lại là một vài liên kết hoạt động mạnh nhất khi chi được sử dụng lần cuối, và thật không may, đó là những liên kết đến hệ thống đau, giống như những bệnh nhân bị bó bột trước khi làm phẫu thuật cắt cụt chi đã xuất hiện chi ma “mắc kẹt” ở nơi mà cánh tay của họ trước khi bị cắt bỏ.

Một nhà khoa học người Úc, G. L. Moseley, nghĩ rằng ông ta có thể giúp đỡ những bệnh nhân không có tiến bộ khi sử dụng hộp gương, vì nỗi đau của họ quá lớn nên họ không thể cử động tay chân trong liệu pháp gương. Moseley cho rằng việc xây dựng bản đồ vận động của chi bị ảnh hưởng bằng những bài tập trí óc có thể kích hoạt sự thay đổi tính dẻo thần kinh. Ông yêu cầu những bệnh nhân này chỉ đơn giản là tưởng tượng đang cử động các chi đau đớn của họ, mà không cần thực hiện các động tác, để kích hoạt mạng lưới vận động của bộ não. Các bệnh nhân cũng nhìn vào hình ảnh của bàn tay, để xác định xem chúng là tay trái hay tay phải, cho đến khi họ có thể xác định chúng một cách nhanh chóng và chính xác – một bài tập nhằm kích hoạt vỏ não vận động. Họ được cho xem các bàn tay ở nhiều vị trí khác nhau và được yêu cầu tưởng tượng chúng trong mười lăm phút, ba lần một ngày. Sau khi thực hành các bài tập hình dung/tưởng tượng, họ đã làm liệu pháp gương, và với mười hai tuần trị liệu, cơn đau đã giảm dần ở một số người và đã biến mất ở một nửa số người.

Nghĩ xem điều này ấn tượng biết bao — đối với một cơn đau mãn tính, kinh khủng nhất, một phương pháp điều trị hoàn toàn mới sử dụng trí tưởng tượng và ảo giác để tái cấu trúc bản đồ não bằng nhựa/tính dẻo mà không cần thuốc, kim tiêm hoặc điện.

Việc phát hiện ra các bản đồ đau cũng đã dẫn đến các phương pháp mới để phẫu thuật và sử dụng thuốc giảm đau. Đau ảo sau phẫu thuật có thể được giảm thiểu nếu bệnh nhân phẫu thuật bị khối dây thần kinh cục bộ hoặc gây tê cục bộ tác động lên dây thần kinh ngoại biên trước khi thuốc gây mê đưa họ chìm vào giấc ngủ. Thuốc giảm đau, được sử dụng trước khi phẫu thuật, không chỉ dùng sau phẫu thuật, dường như ngăn chặn sự thay đổi tính dẻo trong bản đồ đau của não có thể “khóa” cơn đau.

Ramachandran và Eric Altschuler đã chỉ ra rằng hộp gương cũng có hiệu quả đối với các vấn đề không liên quan tới các chi ảo, chẳng hạn như chân bị liệt của bệnh nhân đột quỵ. Liệu pháp gương khác với liệu pháp của Taub ở chỗ nó đánh lừa não của bệnh nhân khi nghĩ rằng anh ta đang di chuyển chi bị ảnh hưởng, và do đó, nó bắt đầu kích thích các chương trình vận động của chi đó. Một nghiên cứu khác cho thấy liệu pháp gương là hữu ích trong việc chuẩn bị cho một bệnh nhân đột quỵ bị liệt nghiêm trọng, người không thể cử động được một bên cơ thể, để điều trị giống như Taub. Bệnh nhân phục hồi một số chức năng của cánh tay, lần đầu tiên hai phương pháp điều trị mới dựa trên tính dẻo thần kinh – liệu pháp gương và liệu pháp CI – được sử dụng theo trình tự.

Ở Ấn Độ, Ramachandran lớn lên trong một thể giới nơi nhiều thứ trông thật tuyệt vời với người phương Tây. Ông biết về những người tập yoga giảm bớt khổ đau bằng thiền định và đi chân trần qua than nóng hoặc nằm trên móng tay. Ông thấy những người theo tôn giáo trong trạng thái thôi miên nhét kim khâu xuyên qua cằm họ. Quan điểm cho rằng các sinh vật sống thay đổi hình dạng của chúng được chấp nhận rộng rãi; sức mạnh của tâm trí ảnh hưởng đến cơ thể được xem là điều hiển nhiên, và ảo giác được xem như một sức mạnh cơ bản được thể hiện trong vị thần Maya, nữ thần ảo giác. Ông ấy đã chuyển cảm giác bất ngờ, kinh ngạc từ đường phố Ấn Độ vào khoa học thần kinh phương Tây, và công việc của ông đã truyền cảm hứng cho những nghiên cứu pha trộn cả hai. Tại sao chúng ta nghĩ rằng nỗi đau ảo lại ít thực hơn nỗi đau thông thường? Và ông đã nhắc nhở chúng ta rằng khoa học vĩ đại vẫn có thể được thực hiện với sự đơn giản thanh lịch.

Chương 8: Bệnh nhân đột quỵ học cách di chuyển và nói lại

Bác sỹ Michael Bernstein, một bác sĩ phẫu thuật mắt và người chơi tennis sáu lần một tuần, bị đột quỵ khi đang ở giai đoạn đỉnh cao của cuộc đời, ở độ tuổi 54, đã lập gia đình với bốn đứa con. Anh ấy vừa hoàn thành một liệu pháp tính dẻo thần kinh mới, bình phục và trở lại làm việc khi tôi gặp anh ấy tại văn phòng của anh ở Birmingham, Alabama. Vì có nhiều phòng trong văn phòng của anh ấy, tôi đoán anh hẳn là có một số bác sỹ hỗ trợ anh. Không, anh giải thích, anh có rất nhiều phòng vì anh có nhiều bệnh nhân cao tuổi, và thay vì bắt họ di chuyển, anh đến tận phòng của họ.

“Những bệnh nhân cao tuổi này, một vài người trong số họ bị đột quỵ, nên đi không vững.” Anh cười.

Vào buổi sáng hôm bị đột quỵ, bác sỹ Bernstein đã làm phẫu thuật cho bảy bệnh nhân, thực hiện phẫu thuật đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp và phẫu thuật khúc xạ thông thường – các thủ thuật khó trong mắt.

Sau đó, khi bác sỹ Bernstein tự thưởng cho bản thân bằng một buổi chơi tennis, đối thủ của anh nói rằng anh không giữ được cân bằng và không chơi tennis như ngày thường của anh. Sau khi chơi tennis. Anh lái xe đến ngân hàng làm chút việc vặt, và khi anh cố đưa chân ra khỏi chiếc xe hơi thể thao gầm thấp thì không thể. Khi quay trở lại văn phòng, thư ký của anh nói rằng trông anh không được ổn. Bác sỹ gia đình của anh, Bác sỹ Lewis, người làm việc trong tòa nhà này, biết Bernstein mắc bệnh tiểu đường loại nhẹ, có vấn đề về cholesterol và mẹ anh nhiều lần bị đột quỵ, khiến anh trở thành ứng cử viên có nguy cơ bị đột quỵ sớm. Bác sĩ Lewis đã tiêm cho bác sĩ Bernstein một mũi heparin để làm máu không bị vón cục, và vợ của bác sĩ Bernstein đã đưa anh đến bệnh viện.

Trong mười hai đến mười bốn giờ tiếp theo, cơn đột quỵ trở nên trầm trọng hơn và toàn bộ phần bên trái của cơ thể anh bị tê liệt hoàn toàn, dấu hiệu cho thấy một phần đáng kể của vỏ não vận động đã bị tổn thương.

Hình ảnh chụp não MRI đã xác nhận chẩn đoán này — các bác sĩ đã nhìn thấy một khiếm khuyết ở phần bên phải của não điều khiển chuyển động ở bên trái cơ thể. Anh được chăm sóc đặc biệt trong một tuần, và phục hồi được một chút. Sau một tuần tập vật lý trị liệu, liệu pháp lao động và trị liệu ngôn ngữ trong bệnh viện, anh được chuyển đến cơ sở phục hồi chức năng trong hai tuần, sau đó được đưa về nhà. Anh có thêm ba tuần phục hồi chức năng như một bệnh nhân ngoại trú và được cho biết việc điều trị đã kết thúc. Anh còn nhận được sự chăm sóc sau đột quỵ đặc trưng.

Nhưng sự phục hồi của anh chưa trọn vẹn. Anh vẫn cần đến một cây gậy. Tay trái của anh hầu như không hoạt động. Anh không thể đặt ngón tay cái và ngón tay đầu tiên của mình vào nhau trong một chuyển động gọng kìm. Dù anh là người thuận tay phải bẩm sinh, anh từng là người thuận cả hai tay và trước khi bị đột quỵ, anh có thể phẫu thuật đục thủy tinh thể bằng tay trái. Bây giờ anh không thể dùng được tay trái. Anh không thể cầm nĩa, đưa thìa lên miệng hoặc cài nút áo. Có lần trong quá trình phục hồi, anh được đến sân tennis và được đưa một cây vợt để xem thử anh có thể cầm nó được không. Anh không thể và bắt đầu tin rằng mình sẽ không bao giờ chơi tennis được nữa. Dù được cho biết là anh không thể lái chiếc xe Porsche nữa, anh đã chờ cho tới khi không còn ai ở nhà, “để leo lên chiếc xe trị giá $50,000 và lùi nó ra khỏi gara. Tôi lái xe đến tận cuối lối đi vào nhà, tôi quan sát cả hai hướng, và trông tôi như một thằng nhóc tuổi teen đang ăn trộm xe hơi. Khi tôi chạy đến ngõ cụt, chiếc xe bị chết máy. Trong xe Porsche, chìa khóa nằm ở bên trái của cột vô lăng. Tôi không thể xoay chìa khóa bằng tay trái của mình. Tôi phải dùng tay phải với qua và xoay chìa khóa để khởi động xe, vì tôi không có cách nào khác để ra khỏi xe và phải gọi điện về nhà nhờ người thân đến giúp tôi. Và tất nhiên, chân trái của tôi bị hạn chế và đạp côn không dễ dàng.”

Bác sỹ Bernstein là một trong những người đầu tiên đến Phòng khám Trị liệu Taub, để tham gia liệu pháp vận động hạn chế (CI) của Edward Taub, khi chương trình này vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu. Anh cho rằng mình không còn gì để mất. Sự tiến bộ của anh với liệu pháp CI diễn ra rất nhanh. Anh mô tả về nó như sau: “Nó diễn ra liên tục. Chương trình bắt đầu lúc tám giờ sáng và làm không ngừng nghỉ cho đến khi bạn hoàn thành lúc bốn giờ ba mươi. Nó thậm chí còn tiếp tục vào bữa trưa. Chỉ có hai chúng tôi, bởi vì đó là giai đoạn đầu của trị liệu. Một bệnh nhân khác là một y tá, trẻ hơn tôi, khoảng bốn mươi mốt hoặc bốn mươi hai tuổi. Cô ấy đã bị đột quỵ sau khi sinh con. Và vì một số lý do, cô ấy đã thi đua với tôi” anh cười – “nhưng chúng tôi rất hợp nhau, và chúng tôi đã đút cho nhau ăn. Họ sẽ yêu cầu bạn làm rất nhiều nhiệm vụ nhỏ nhặt, như nâng lon từ kệ này sang kệ khác. Vì cô ấy rất thấp, nên tôi sẽ xếp các lon lên cao nhất có thể.

Họ lau mặt bàn và lau cửa sổ phòng thí nghiệm để mở rộng cánh tay theo chuyển động tròn. Để tăng cường mạng lưới não cho bàn tay của họ và phát triển sự kiểm soát, họ kéo căng các dải cao su dày bằng các ngón tay yếu. “Sau đó tôi sẽ phải ngồi đó và viết chữ ABC bằng tay trái của tôi.” Trong hai tuần anh ta học cách viết chữ in hoa và sau đó viết bằng tay trái bị ảnh hưởng của anh. Đến cuối thời gian của liệu pháp, anh có thể chơi Scrabble, nhặt những viên gạch nhỏ bằng tay trái và đặt chúng lên tấm bảng một cách thích hợp. Kỹ năng vận động tinh của anh đã trở lại. Khi về nhà, anh tiếp tục thực hành các bài tập và tiếp tục cải thiện. Và anh ta có một phương pháp điều trị khác, kích thích điện trên cánh tay, để kích hoạt tế bào thần kinh.

Bây giờ anh ấy đã trở lại điều hành văn phòng bận rộn của mình. Anh ấy cũng đang chơi tennis ba ngày một tuần. Anh vẫn gặp một số khó khăn khi chạy và đang cố gắng khắc phục điểm yếu ở chân trái chưa được điều trị đầy đủ tại phòng khám Taub – từ đó đã bắt đầu một chương trình đặc biệt dành cho những người bị liệt chân.

Anh ấy còn sót lại một vài vấn đề. Tay trái của anh không có cảm giác như bình thường, đó là điều thường thấy sau trị liệu CI. Chức năng cơ thể quay trở lại, nhưng không hoàn toàn về mức cũ. Tuy nhiên, khi tôi bảo anh ấy viết ABC bằng tay trái, chúng trông rất đẹp và tôi không bao giờ đoán được anh ấy từng bị đột quỵ hay anh ấy thuận tay phải.

Mặc dù anh ấy trở nên tốt hơn bằng việc tại tạo bộ não của anh và sẵn sàng quay lại với công việc bác sỹ phẫu thuật, anh vẫn quyết định không làm, chỉ vì nếu ai đó kiện anh tội sơ suất, thì điều đầu tiên mà các luật sư sẽ nói đó là anh ấy từng bị đột quỵ và không nên làm công việc phẫu thuật. Ai có thể tin rằng Bác sĩ Bernstein có thể phục hồi hoàn toàn như trước?

Đột quỵ là một cú đánh bất ngờ, một tai họa. Bộ não bị tấn công từ bên trong. Một cục máu đông hoặc bị chảy máu trong động mạch não sẽ cắt oxy đến các mô của não, giết chết chúng. Nạn nhân đau khổ nhất của đột quỵ kết cục trở thành cái bóng của chính mình, bị mắc kẹt trong cơ thể của họ, được nuôi dưỡng như đứa trẻ, không thể tự chăm sóc, di chuyển hoặc nói chuyện. Đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật ở người lớn. Mặc dù nó thường ảnh hưởng đến người cao tuổi, nhưng nó cũng có thể xảy ra ở những người trong độ tuổi bốn mươi hoặc trẻ hơn. Các bác sĩ trong phòng cấp cứu có thể ngăn không để đột quỵ trở nên tồi tệ hơn bằng cách mở khóa cục máu đông hoặc cầm máu, nhưng một khi tổn thương đã xảy ra thì y học hiện đại gần như bó tay – hoặc cho đến khi Edward Taub phát minh ra phương pháp điều trị dựa trên tính dẻo thần kinh. Cho đến khi trị liệu CI, các nghiên cứu về bệnh nhân đột quỵ mãn tính bị liệt cánh tay đã kết luận rằng hiện tại chưa có phương pháp điều trị nào hiệu quả. Có những báo cáo giai thoại hiếm hoi về sự phục hồi của bệnh nhân đột quỵ, giống như báo cáo về cha của Paul Bach-y-Rita (ở chương 1). Một số người tự phục hồi được, nhưng một khi họ ngừng tiến bộ, thì các liệu pháp truyền thống không giúp được gì nhiều.

Cách điều trị của Taub thay đổi tất cả những điều này bằng cách giúp bệnh nhân đột quỵ thiết lập lại bộ não của họ. Những bệnh nhân bị liệt trong nhiều năm và được cho biết họ sẽ không bao giờ phục hồi được đã bắt đầu đi đứng trở lại. Một số người còn lấy lại khả năng nói. Trẻ em bị bại não đã kiểm soát các cử động của chúng. Phương pháp điều trị tương tự mang lại hy vọng những bệnh nhân bị chấn thương tủy sống, Parkinson, đa xơ cứng và thậm chí viêm khớp.

Tuy nhiên, rất ít người biết đến những đột phá của Taub, mặc dù lần đầu tiên ông ta nghĩ ra và đặt nền móng cho chúng hơn một phần tư thế kỷ trước, vào năm 1981. Ông chần chừ chia sẻ chúng vì ông từng là một trong những nhà khoa học tàn nhẫn nhất thời đại của chúng ta. Những con khỉ mà ông làm nghiên cứu trở thành những động vật thí nghiệm nổi tiếng nhất lịch sử, không phải vì những thứ mà các thí nghiệm của ông chứng minh mà vì những cáo buộc về chuyện chúng bị ngược đãi — những cáo buộc này khiến ông không được làm thí nghiệm trong nhiều năm. Những cáo buộc này có vẻ hợp lý bởi vì Taub đã vượt xa các đồng nghiệp của mình bằng tuyên bố những bệnh nhân bị đột quỵ mãn tính có thể chữa được bởi liệu pháp dựa trên tính dẻo thần kinh nghe có vẻ khó tin.

Edward Taub

Edward Taub là một người đàn ông gọn gàng, tận tâm và hay chú ý đến tiểu tiết. Ông đã ngoài bảy mươi, dù vẻ ngoài của ông trông trẻ hơn, ăn mặc tinh tế. Trong cuộc trò chuyện Taub có giọng nói nhỏ nhẹ, tự sửa lỗi chính mình để đảm bảo những điều ông ấy nói là chính xác. Ông ấy sống ở Birmingham, Alabama, nơi có trường đại học mà cuối cùng ông được quyền phát triển phương pháp trị liệu của ông dành cho các bệnh nhân đột quỵ. Vợ ông, Mildred, là một ca sỹ hát giọng nữ cao, được thu âm với Stravinsky, và hát cùng Metropolitan Opera. Bà ấy vẫn là một mỹ nhân dịu dàng nữ tính.

Taub sinh ra ở Brooklyn vào năm 1931, học ở trường công và tốt nghiệp phổ thông khi mới mười lăm tuổi. Tại Đại học Columbia, ông nghiên cứu “chủ nghĩa hành vi” với Fred Keller. Chủ nghĩa hành vi bị thống trị bởi nhà tâm lý học Harvard B. F. Skinner, và Keller là người thay thế trí tuệ của Skinner. Các nhà hành vi thời đó tin rằng tâm lý học phải là một môn khoa học “khách quan” và chỉ nên xem xét những gì có thể nhìn thấy và đo lường được: những hành vi có thể quan sát. Chủ nghĩa hành vi là một phản ứng chống lại tâm lý học tập trung vào tâm trí vì theo các nhà hành vi, những suy nghĩ, cảm xúc và những ham muốn chỉ đơn thuần là trải nghiệm “chủ quan” không thể đo lường được một cách khách quan. Họ không hứng thú với bộ não vật lý, cho rằng nó giống như tâm trí, là một “chiếc hộp đen.” Người cố vấn của Skinner, John B. Watson, đã viết một cách chế nhạo, “Phần lớn các nhà tâm lý học bàn luận khá sôi nổi về việc hình thành những con đường mòn thần kinh mới trong bộ não, như thể có một nhóm người hầu nhỏ bé của Vulcan chạy qua hệ thần kinh mang theo búa và đục để đào những con đường mới và đào sâu những con đường cũ.” Đối với các nhà hành vi, chuyện gì diễn ra bên trong tâm trí hoặc bộ não đều không quan trọng. Người ta có thể khám phá ra các quy luật của hành vi chỉ bằng cách gây ra một kích thích lên một con vật hoặc một người và quan sát phản ứng. Tại Columbia, các nhà hành vi đã làm thí nghiệm chủ yếu với chuột. Khi còn là một nghiên cứu sinh, Taub đã phát triển cách thức quan sát chuột và ghi lại các hoạt động của chúng bằng cách sử dụng một “nhật ký chuột” phức tạp.

Nhưng khi ông sử dụng phương pháp này để kiểm tra một lý thuyết nào đó của người cố vấn của ông, Fred Keller, ông đã kinh hoàng bác bỏ nó. Taub yêu thích Keller và ngại ngần thảo luận các kết quả thực nghiệm với ông ấy, nhưng Keller đã phát hiện ra và bảo Taub rằng ông phải luôn luôn “trung thực với dữ liệu.”

Chủ nghĩa hành vi thời đó, bằng việc khăng khăng cho rằng mọi hành vi đều là một đáp ứng trước một kích thích, mô tả con người là thụ động và đặc biệt yếu kém trong việc giải thích tại sao chúng ta có thể làm những công việc tình nguyện. Taub nhận ra tâm trí và bộ não phải tham gia vào việc khởi xướng nhiều hành vi, và việc loại bỏ tâm trí và não bộ của chủ nghĩa hành vi là một lỗ hổng chết người. Dù là một sự lựa chọn không thể tưởng tượng nổi cho một nhà hành vi trong thời đại đó, ông ta đã nhận công việc trợ lý nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thần kinh thực nghiệm, để hiểu rõ hơn về hệ thần kinh. Trong phòng thí nghiệm họ đang thực hiện các thí nghiệm “chặn xung động thần kinh tới” với những con khỉ.

Chặn xung động thần kinh tới (Deafferentation) là một kỹ thuật cổ, được dùng bởi người từng đoạt giải Nobel Sir Charles Sherrington năm 1895. Một “dây thần kinh hướng tâm”, trong bối cảnh này, có nghĩa là “dây thần kinh cảm giác”, truyền tải các xung cảm giác đến cột sống và sau đó là não. Chặn xung động thần kinh tới là một phương pháp phẫu thuật trong đó các dây thần kinh cảm giác đến bị cắt để không có thông tin đầu vào nào của chúng có thể thực hiện chuyến đi này. Một con khỉ bị chặn xung động thần kinh tới không thể cảm nhận được các chi bị chặn xung thần kinh tới của nó đang ở đâu trong không gian, hoặc không cảm nhận được bất kì cảm giác hoặc đau đớn nào trong chúng khi được chạm vào. Chiến công tiếp theo của Taub – khi còn là một nghiên cứu sinh – là lật đổ một trong những quan điểm quan trọng nhất của Sherrington và nhờ thế đặt nền móng cho việc điều trị đột quỵ của ông.

Sherrington ủng hộ quan điểm cho rằng tất cả các chuyển động của chúng ta xảy ra nhằm đáp ứng lại một số kích thích và chúng ta di chuyển, không phải vì bộ não của chúng ta điều khiển nó, mà bởi vì phản xạ cột sống của chúng ta làm cho chúng ta di chuyển.

Quan điểm này được gọi là “thuyết phản xạ” và đã từng thống trị khoa học thần kinh.

Một phản xạ cột sống không liên quan đến não bộ. Có nhiều phản xạ cột sống nhưng ví dụ đơn giản nhất là phản xạ đầu gối. Khi bác sĩ gõ nhẹ vào đầu gối của bạn, một thụ thể cảm giác bên dưới da nhấc vòi và truyền một xung dọc theo nơ-ron cảm giác ở đùi và vào cột sống, truyền nó đến một nơ-ron vận động trong cột sống, nó gửi một xung trở lại cơ bắp đùi của bạn, khiến nó co lại và làm cho chân bạn giật về phía trước một cách không tự nguyện. Khi đi bộ, chuyển động ở một chân kích hoạt chuyển động của chân kia, theo phản xạ.

Lý thuyết này đã sớm được sử dụng để giải thích tất cả các chuyển động. Sherrington dựa trên niềm tin của mình rằng phản xạ là nền tảng của mọi chuyển động trong một thí nghiệm về Chặn xung động thần kinh tới mà ông làm với F. W. Mott. Họ chặn xung động thần kinh cảm giác ở cánh tay của một con khỉ, cắt chúng trước khi chúng đi vào tủy sống, vì vậy không có tín hiệu cảm giác nào có thể truyền đến não của con khỉ và phát hiện ra rằng con khỉ đã ngừng sử dụng chi. Điều này có vẻ lạ, bởi vì họ đã cắt dây thần kinh cảm giác (truyền cảm giác), chứ không phải dây thần kinh vận động từ não đến cơ bắp (kích thích chuyển động). Sherrington hiểu lý do tại sao con khỉ không có cảm giác nhưng không hiểu tại sao chúng không thể di chuyển được.

Để giải quyết vấn đề này, ông đề xuất rằng sự chuyển động dựa trên và được khởi xướng bởi phần cảm giác của phản xạ cột sống và những con khỉ của ông ta không thể di chuyển vì ông ta đã phá hủy phần cảm giác của phản xạ của chúng bằng cách Chặn xung động thần kinh tới. Các nhà tư tưởng khác đã sớm khái quát hóa ý tưởng của ông, lập luận rằng tất cả các chuyển động, và thực sự mọi thứ chúng ta làm, ngay cả hành vi phức tạp, đều được xây dựng từ các chuỗi phản xạ. Ngay cả những chuyển động tự nguyện như viết lách cũng đòi hỏi vỏ não vận động phải sửa đổi các phản xạ có từ trước. Mặc dù các nhà hành vi phản đối nghiên cứu về hệ thần kinh, nhưng họ thừa nhận quan điểm rằng tất cả các chuyển động đều dựa trên phản xạ đáp ứng với các kích thích trước đó, bởi vì nó loại tâm trí và bộ não ra khỏi hành vi. Điều này đến lượt nó lại ủng hộ quan điểm rằng tất cả các hành vi được xác định trước bởi những gì đã xảy ra với chúng ta trước đó và ý chí tự do đó là một ảo tưởng. Thực nghiệm của Sherrington trở thành tiêu chuẩn giảng dạy trong các trường y và các trường đại học.

Taub, làm việc với một bác sĩ phẫu thuật thần kinh, A. J. Berman, muốn xem liệu ông có thể sao chép thí nghiệm của Sherrington trên một số con khỉ hay không, và ông ta mong đợi có được kết quả như của Sherrington. Đi thêm một bước xa hơn Sherrington, ông quyết định không chỉ Chặn xung động thần kinh tới ở một trong hai cánh tay của con khỉ mà còn bó cánh tay khỏe mạnh của khỉ trong một cái địu để hạn chế cử động của nó. Taub nhận ra những con khỉ có thể không dùng đến cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới của chúng bởi vì chúng có thể sử dụng cánh tay còn khỏe mạnh một cách dễ dàng. Việc bó cánh tay còn khỏe vào cái địu buộc con khỉ phải sử dụng cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới để tự ăn và di chuyển.

Nó có hiệu quả. Những con khỉ, khi không thể sử dụng cánh tay khỏe mạnh của chúng đã bắt đầu dùng đến cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới. Taub nói, “Tôi nhớ lại nó một cách sống động. Tôi nhận ra tôi đã nhìn thấy những con khỉ sử dụng tay của chúng trong vài tuần, và tôi không thốt nên lời vì tôi chưa từng mong chờ điều này.”

Taub biết phát hiện của mình có ý nghĩa lớn. Nếu những con khỉ có thể cử động cánh tay bị chặn xung thần kinh tới của chúng mà không có cảm giác trong chúng thì khi đó lý thuyết của Sherrington và các giáo viên của Taub là sai lầm. Trong não bộ phải có các chương trình vận động độc lập, có thể khởi xướng chuyển động tự nguyện; chủ nghĩa hành vi và khoa học thần kinh đã đi vào ngõ cụt trong bảy mươi năm. Taub cũng nghĩ rằng phát hiện của mình có thể có ý nghĩa đối với việc phục hồi đột quỵ vì những con khỉ, giống như bệnh nhân đột quỵ, dường như không thể cử động cánh tay. Có lẽ một số bệnh nhân đột quỵ, như khỉ, cũng có thể cử động chân tay nếu bị ép buộc.

Taub đã sớm nhận ra rằng không phải tất cả các nhà khoa học đều khoan dung tử tế khi lý thuyết của họ bị bác bỏ giống như Keller. Những tín đồ sùng bái Sherrington bắt đầu soi lỗi với thí nghiệm, phương pháp luận và cách giải thích của Taub. Các cơ quan cấp phép thì tranh luận về việc có nên cấp thêm tiền cho nghiên cứu sinh trẻ tuổi không. Giáo sư của Taub tại Columbia, Nat Schoenfeld, đã xây dựng một lý thuyết hành vi nổi tiếng trên cơ sở các thí nghiệm Chặn xung động thần kinh tới của Sherrington. Khi Taub bảo vệ luận án tiến sỹ của mình, hội trường mọi khi vắng tanh thì nay chật cứng. Keller, người cố vấn của Taub, vắng mặt, và Schoenfeld đã có mặt. Taub trình bày dữ liệu của mình và giải thích về nó. Schoenfeld tranh cãi với ông và bỏ ra ngoài. Rồi đến kì thi cuối kì. Taub, vào thời điểm này, đã nhận được nhiều khoản trợ cấp hơn nhiều giảng viên giảng dạy và đã chọn làm việc cho hai hồ sơ xin cấp tài trợ trong tuần chung kết, kỳ vọng được chấp nhận. Khi ông bị từ chối và thất bại vì “sự ngạo ngược”, ông quyết định hoàn thành bằng tiến sỹ tại trường đại học New York. Đa số các nhà khoa học trong lĩnh vực của ông không tin vào những phát hiện của ông. Ông bị công kích trong các cuộc họp khoa học và không nhận được sự công nhận hay giải thưởng khoa học nào. Tuy nhiên, tại NYU Taub rất hạnh phúc. “Tôi đang ở trên thiên đường. Tôi đang làm nghiên cứu. Tôi không còn mong gì hơn thế.”

Taub là người tiên phong trong một loại khoa học thần kinh mới, hợp nhất những thứ tốt nhất của chủ nghĩa hành vi, quét sạch những giáo điều của nó, và khoa học não bộ. Trên thực tế, đó là một sự hợp nhất được dự đoán bởi Ivan Pavlov, người sáng lập chủ nghĩa hành vi, mặc dù nó không được nhiều người biết đến – đã cố gắng trong những năm cuối đời để tích hợp những phát hiện của mình với khoa học não bộ, và thậm chí còn cho rằng bộ não có tính dẻo. Trớ trêu thay, chủ nghĩa hành vi đã có một cách chuẩn bị cho Taub để thực hiện những khám phá quan trọng về tính dẻo thần kinh. Bởi vì các nhà hành vi không hứng thú với cấu trúc bộ não, nên họ chưa kết luận, giống như phần lớn các nhà khoa học thần kinh, rằng bộ não thiếu tính mềm dẻo. Nhiều người tin rằng họ có thể huấn luyện một con vật làm hầu hết mọi thứ, và mặc dù họ không nói về “tính dẻo dai”, họ tin vào tính dẻo của hành vi.

Mở ra cho ý tưởng về tính dẻo thần kinh, Taub tiếp tục với phương pháp chặn xung động thần kinh tới. Ông lập luận rằng nếu cả hai cánh tay đều bị chặn xung động thần kinh tới thì một con khỉ sẽ sớm cử động được cả hai tay, vì nó buộc phải sống sót. Vì vậy ông đã chặn xung động thần kinh tới ở cả hai tay, và trên thực tế các con khỉ đã cử động được chúng.

Phát hiện này thật nghịch lý: nếu một cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới, con khỉ không thể sử dụng nó. Nhưng nếu cả hai cánh tay đều bị chặn xung động thần kinh tới, con khỉ có thể sử dụng cả hai!

Sau đó Taub chặn xung động thần kinh tới toàn bộ tủy sống, do đó không còn một phản xạ cột sống nào trong cơ thể và con khỉ không thể nhận được đầu vào cảm giác từ bất kỳ chi nào. Nhưng nó vẫn dùng được chân tay của nó. Lý thuyết phản xạ của Sherrington đã chết. Sau đó Taub có sự giác ngộ khác, sẽ làm biến đổi cách điều trị đột quỵ. Ông cho rằng lý do con khỉ không sử dụng cánh tay của nó sau khi một chi bị chặn xung động thần kinh tới là vì nó đã học được không sử dụng nó trong giai đoạn ngay sau khi phẫu thuật khi tủy sống vẫn còn “sốc cột sống” từ cuộc phẫu thuật. Sốc cột sống có thể kéo dài từ hai đến sáu tháng, giai đoạn các tế bào thần kinh gặp khó khăn trong việc bắn điện. Một con vật bị sốc cột sống sẽ cố gắng di chuyển cánh tay bị ảnh hưởng của nó và thất bại nhiều lần trong những tháng đó.

Không có sự củng cố tích cực, con vật bỏ cuộc và thay vào đó sử dụng cánh tay còn khỏe của mình để tự ăn, nhận được sự củng cố tích cực mỗi khi nó thành công. Và do đó, bản đồ vận động cho cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới – bao gồm các chương trình cử động cánh tay thông thường – bắt đầu suy yếu và teo đi, theo nguyên tắc của tính dẻo là sử dụng nó hoặc mất nó. Taub gọi hiện tượng này là “sự không dùng đến do học được” (learned nonuse) Ông lập luận rằng những con khỉ bị chặn xung động thần kinh tới ở cả hai cánh tay có thể sử dụng/cử động được chúng là bởi vì chúng không bao giờ có cơ hội để biết rằng cánh tay của chúng không hoạt động tốt; chúng phải sử dụng các cánh tay của mình để tồn tại.

Nhưng Taub nghĩ rằng ông chỉ mới có được bằng chứng gián tiếp cho lý thuyết ‘sự không dùng đến do học được’ của ông, vì vậy, trong một loạt các thí nghiệm khéo léo tiếp theo, ông cố gắng ngăn ‘sự không dùng đến do học được’ ở những con khỉ. Trong một thí nghiệm, ông chặn xung động thần kinh tới ở một cánh tay của con khỉ; sau đó, thay vì bó cánh tay còn khỏe vào trong cái địu để hạn chế nó, ông đã bó cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới. Theo cách đó, con khỉ sẽ không thể “học được” rằng nó không thể dùng được cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới trong giai đoạn bị sốc cột sống. Và quả thật, khi ông ấy gỡ bỏ sự hạn chế ở tháng thứ ba, rất lâu sau khi cú sốc cột sống đã biến mất, con khỉ đã sớm có thể dùng được cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới. Taub tiếp tục xem xét cách dạy những con vật vượt qua ‘sự không dùng đến do học được’. Sau đó ông kiểm tra xem thử liệu có thể thay đổi ‘sự không dùng đến do học được’ đã kéo dài nhiều năm sau khi nó phát triển không, bằng cách buộc con khỉ sử dụng cánh tay bị chặn xung động thần kinh tới. Nó có hiệu quả và dẫn đến những sự tiến bộ kéo dài suốt phần đời còn lại của con khỉ. Taub hiện có một mô hình động vật vừa bắt chước những ảnh hưởng của đột quỵ khi tín hiệu thần kinh bị gián đoạn và tay chân không thể di chuyển, và một cách khả thi để xử lý vấn đề.

Taub tin rằng những khám phá này có nghĩa là những người từng bị đột quỵ hoặc bị những loại tổn thương não khác, thậm chí nhiều năm trước đó, có thể mắc phải ‘sự không dùng đến do học được’. Ông biết bộ não của một số bệnh nhân đột quỵ với tổn thương rất nhỏ đi vào một cú sốc cột sống tương đương, “sốc vỏ não,” có thể kéo dài trong vài tháng. Trong giai đoạn này, mỗi lần cố gắng di chuyển bàn tay đều gặp phải thất bại, có thể dẫn đến ‘sự không dùng đến do học được’.

Những bệnh nhân đột quỵ với tổn thương não rộng trong khu vực vận động đã không cải thiện trong một thời gian dài và khi họ cử động, chỉ hồi phục được phần nào. Taub lập luận rằng bất kì phương pháp điều trị đột quỵ nào sẽ cần phải giải quyết tổn thương não bộ và ‘sự không dùng đến do học được’. Vì ‘sự không dùng đến do học được’ có thể che giấu khả năng phục hồi của bệnh nhân, chỉ bằng cách vượt qua ‘sự không dùng đến do học được’ thì ta mới có thể thực sự đánh giá được triển vọng của bệnh nhân. Taub tin rằng ngay cả sau khi đột quỵ, có khả năng cao là các chương trình vận động cho cử động vẫn tồn tại trong hệ thần kinh. Do đó cách thức để phơi bày khả năng vận động là làm với con người như những gì ông đã làm với các con khỉ: hạn chế sử dụng chi còn khỏe mạnh và buộc chân/tay bị ảnh hưởng phải cử động.

Trong khoảng thời gian đầu làm việc với khỉ, Taub đã học được một bài học quan trọng. Nếu ông chỉ đơn giản trao cho chúng một phần thưởng vì sử dụng cánh tay yếu của chúng để với lấy thức ăn— nếu ông ta cố gắng thực hiện điều mà các nhà hành vi gọi là “điều kiện hóa” – thì những con khỉ không có tiến bộ. Ông đã chuyển sang một kỹ thuật khác gọi là “tạo hình,” tạo ra một hành vi bằng những bước rất nhỏ. Theo đó, con vật bị chặn xung động thần kinh tới sẽ nhận được một phần thưởng không chỉ nhờ hành động với được đến chỗ thức ăn mà vì đã thực hiện một động tác nhỏ, khiêm tốn nhất đầu tiên.

Vào tháng 5 năm 1981 Taub đã bốn mươi chín tuổi, đứng đầu phòng thí nghiệm của riêng mình, Trung tâm Sinh học Hành vi ở Silver Spring, Maryland, với kế hoạch lớn để biến nghiên cứu ông đang làm với khỉ thành một phương pháp điều trị đột quỵ. Alex Pacheco, một sinh viên theo học ngành khoa học chính trị 22 tuổi, tại trường đại học George Washington, ở Washington, D.C., tình nguyện làm việc trong phòng thí nghiệm của ông. Pacheco nói với Taub rằng anh ta đang muốn trở thành một nhà nghiên cứu y khoa. Taub thấy anh ta là người cá tính và muốn giúp đỡ. Nhưng Pacheco không cho ông ấy biết rằng anh ta là đồng sáng lập và chủ tịch của People for the Ethical Treatment of Animals (PETA) (Những người tranh đấu cho sự đối xử có đạo đức với động vật), nhóm bảo vệ quyền động vật. Người đồng sáng lập PETA khác là Ingrid Newkirk, ba mươi mốt tuổi. Newkirk và Pacheco yêu nhau và cùng điều hành PETA từ căn hộ ở Quận Columbia của họ.

PETA đã và đang chống lại tất cả các nghiên cứu y tế liên quan đến động vật, thậm chí nghiên cứu để chữa bệnh ung thư, bệnh tim và AIDS (một khi nó được phát hiện). PETA phản đối việc con người (chứ không phải những con vật khác) ăn thịt động vật, việc sản xuất sữa và mật ong (được mô tả là “bóc lột” những con bò và ong), và việc nuôi thú cưng (được xem như “nô lệ”). Khi Pacheco tình nguyện làm việc với Taub, mục đích của anh ta là giải thoát mười bảy “chú khỉ Silver Spring” và biến chúng thành lời kêu gọi cho một chiến dịch bảo vệ quyền động vật.

Mặc dù việc chặn xung động thần kinh tới không gây đau đớn thể xác, nhưng vẫn thật khó coi. Vì những con khỉ bị chặn xung động thần kinh tới không thể cảm nhận được sự đau đớn ở cánh tay của chúng nên khi chúng va vào thứ gì đó, chúng có thể tự làm mình bị thương. Khi cánh tay bị thương của chúng bị băng bó, những con khỉ có lúc phản ứng như thể cánh tay của chúng là vật xa lạ và cố gắng nhai cắn nó. Vào năm 1981, khi Taub đi nghỉ hè ba tuần, Pacheco đã đột nhập vào phòng thí nghiệm và chụp những bức ảnh có vẻ cho thấy những chú khỉ đang sống trong cảnh khổ sở, bị thương và bị bỏ bê khi chúng buộc phải ăn từ những cái cháo dính phân bẩn của chúng. Với những bức ảnh, Pacheco đã thuyết phục chính quyền và cảnh sát Maryland đột kích vì, không giống như luật pháp ở các tiểu bang khác, đạo luật Maryland về hành vi tàn ác đối với động vật có thể được xem là không ngoại lệ đối với nghiên cứu y học.

Khi Taub trở về phòng thí nghiệm, ông choáng váng vì được giới truyền thông chào đón và những hậu quả đi cùng. Cách đó vài dặm, các nhà quản lý của Viện Sức khỏe quốc gia (NIH), tổ chức nghiên cứu y học hàng đầu của quốc gia, hay tin về cuộc tấn công của giới truyền thông và cảm thấy sợ hãi. Các phòng thí nghiệm NIH thực hiện nhiều thí nghiệm y sinh trên động vật hơn bất kỳ tổ chức nào khác trên thế giới và rõ ràng có thể trở thành mục tiêu tiếp theo của PETA. NIH đã phải quyết định có nên bảo vệ Taub hay không và đồng tình với PETA và cho rằng Taub là một quả táo hư và nên cách ly. Họ đang quay sang chống lại Taub.

PETA đóng vai trò là người bảo vệ tuyệt vời của pháp luật, mặc dù Pacheco vin vào lý lẽ rằng việc đốt phá, hủy hoại tài sản và trộm cắp là có thể chấp nhận được “khi họ đang trực tiếp làm giảm bớt nỗi đau đớn và khổ sở của một con vật.” Trường hợp của Taub trở nên nổi tiếng khắp xã hội Washington. Tờ Washington Post đưa tin về cuộc tranh cãi và các nhà bình luận thì bêu riếu Taub. Taub bị mô tả như con ác quỷ bởi các nhà hoạt động bảo vệ quyền động vật trong một chiến dịch phác họa ông như kẻ tra tấn giống với tiến sỹ Đức quốc xã Mengele. Việc công khai hình ảnh của “những con khỉ Silver Spring” gây ra ảnh hưởng cực lớn và biến PETA trở thành tổ chức bảo vệ quyền động vật lớn nhất ở Hoa Kỳ và Edward Taub trở thành một nhân vật đáng ghét.

Chương 8. Trí tưởng tượng

Ý nghĩ làm thay đổi cấu trúc não bộ như thế nào

Tôi đang ở trong phòng thí nghiệm ở Boston để được kích thích não từ tính, tại Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess, thuộc Trường Y Harvard. Alvaro Pascual- Leone là giám đốc của trung tâm, và các thí nghiệm của anh đã cho thấy chúng ta có thể thay đổi giải phẫu não chỉ bằng cách sử dụng trí tưởng tượng của mình. Anh vừa đặt một cái máy hình mái chèo ở bên trái đầu tôi. Thiết bị phát ra kích thích từ xuyên sọ, hay TMS, và có thể ảnh hưởng đến hành vi của tôi. Bên trong hộp nhựa của máy là một cuộn dây đồng, qua đó dòng điện đi qua để tạo ra một từ trường, thông qua đó một dòng điện đi qua để tạo ra một từ trường thay đổi đi vào bộ não của tôi, vào các sợi trục của các tế bào thần kinh của tôi, và từ đó vào bản đồ vận động của bàn tay tôi ở lớp ngoài của vỏ não của tôi. Một từ trường thay đổi tạo ra một dòng điện xung quanh nó và Pascual-Leone đã đi tiên phong trong việc sử dụng TMS để khiến các tế bào thần kinh bắn điện. Mỗi lần anh ấy bật từ trường, ngón tay thứ tư trên bàn tay phải của tôi di chuyển vì anh ấy đang kích thích một khu vực khoảng 0,5 cm khối trong não tôi, bao gồm hàng triệu tế bào—bản đồ não cho ngón tay đó.

TMS là một cây cầu khéo léo đi vào não tôi. Từ trường của nó đi qua không gây đau đớn và vô hại trong cơ thể tôi, chỉ tạo ra một dòng điện khi từ trường chạm đến các tế bào thần kinh của tôi. Wilder Penfield phải mở hộp sọ bằng phẫu thuật và đưa đầu dò điện của anh ấy vào não để kích thích vỏ não vận động hoặc vỏ não giác quan. Khi Pascual-Leone bật máy và làm cho tôi di chuyển ngón tay, tôi trải nghiệm chính xác những gì mà các bệnh nhân của Penfield đã làm khi anh ta cắt mở hộp sọ của họ và khích động chúng với các điện cực lớn.

Alvaro Pascual-Leone

Alvaro Pascual-Leone còn quá trẻ so với tất cả những thành tựu mà anh ấy đạt được. Anh sinh năm 1961 tại Valencia, Tây Ban Nha và đã tiến hành nghiên cứu cả ở đó và ở Hoa Kỳ. Cha mẹ của Pascual-Leone đều là bác sĩ, đã gửi anh theo học trường Đức ở Tây Ban Nha, nơi, giống như nhiều nhà khoa học thần kinh, anh học về các triết gia Hy Lạp và Đức cổ trước khi chuyển sang y học. Anh lấy bằng thạc sĩ và tiến sỹ về sinh lý học ở Freiburg, sau đó đến Hoa Kỳ để đào tạo thêm.

Pascual-Leone có làn da màu ô liu, mái tóc đen và giọng nói diễn cảm, và anh toát ra một vẻ vui tươi nghiêm túc. Văn phòng nhỏ của anh ta bị thống trị bởi màn hình máy tính khổng lồ của Apple mà anh sử dụng để hiển thị những gì anh nhìn thấy qua cửa sổ TMS về bộ não. E-mails từ các cộng tác viên đổ về từ những vùng xa xôi trên thế giới. Có những cuốn sách về điện từ học được đặt phía sau anh, và giấy tờ ở khắp mọi nơi.

Anh là người đầu tiên sử dụng TMS để lập bản đồ bộ não. TMS có thể được sử dụng để bật một vùng não hoặc ngăn chặn vùng não đó hoạt động, tùy thuộc vào cường độ và tần suất được sử dụng. Để xác định chức năng của một vùng não cụ thể, anh ta bắn TMS để tạm thời ngăn chặn hoạt động của khu vực này, sau đó quan sát chức năng tinh thần nào bị mất.

Anh cũng là một trong những người tiên phong vĩ đại trong việc sử dụng “TMS lặp lại” tần số cao, hoặc rTMS. TMS lặp lại tần số cao có thể kích hoạt các tế bào thần kinh đến mức chúng kích thích lẫn nhau và tiếp tục bắn (điện) ngay cả sau khi cú bắn ban đầu của rTMS đã dừng. Điều này kích hoạt một vùng não bộ trong một thời gian và có thể được sử dụng trong điều trị. Ví dụ, trong một số trường hợp trầm cảm, vỏ não trước trán bị vô hiệu lực một phần và hoạt động kém chức năng. Nhóm của Pascual-Leone là nhóm đầu tiên cho thấy rTMS có hiệu quả trong điều trị những bệnh nhân trầm cảm nặng như vậy. Bảy mươi phần trăm những người đã thất bại trong tất cả các phương pháp điều trị truyền thống đã được cải thiện với rTMS và có ít tác dụng phụ hơn so với dùng thuốc.

Đầu những năm 1990, khi Pascual-Leone vẫn còn là một bác sĩ y khoa trẻ tuổi tại Viện Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ Quốc gia, anh đã làm các thí nghiệm- đã hoàn thiện một phương pháp để lập bản đồ não, khiến những thực nghiệm về trí tưởng tượng của anh trở nên khả thi, và dạy cho chúng ta  cách ta học các kỹ năng.

Anh nghiên cứu cách người ta học những kỹ năng mới bằng cách sử dụng TMS để lập bản đồ bộ não của các đối tượng bị mù học cách đọc chữ nổi. Các đối tượng học chữ nổi trong một năm, năm ngày một tuần, hai giờ một ngày trong lớp, sau đó là một giờ làm bài tập về nhà. Những người đọc chữ nổi “quét” bằng cách di chuyển ngón tay trỏ của họ qua một loạt các chấm nhỏ nổi lên, một hoạt động vận động. Sau đó họ cảm nhận cách sắp xếp của các chấm, một hoạt động cảm giác. Những phát hiện đó là một trong những phát hiện đầu tiên xác nhận rằng khi con người học một kỹ năng mới, sự thay đổi về tính dẻo (thần kinh) xảy ra.

Khi Pascual-Leone sử dụng TMS để lập bản đồ vỏ não vận động, ông phát hiện thấy các bản đồ cho “ngón tay đọc chữ nổi” của con người lớn hơn những bản đồ cho các ngón tay trỏ khác của họ và cả các bản đồ cho các ngón trỏ của người-không đọc chữ nổi. Pascual-Leone cũng phát hiện thấy bản đồ vỏ não vận động tăng kích thước khi các đối tượng tăng số lượng từ họ có thể đọc trong mỗi phút. Nhưng khám phá gây bất ngờ nhất của ông, một điều có ý nghĩa lớn đối với việc học bất kỳ kỹ năng nào, là cách sự thay đổi tính dẻo (thần kinh) xảy ra trong mỗi tuần. Các đối tượng được lập bản đồ với TMS vào thứ Sáu (vào cuối khóa đào tạo trong tuần) và vào thứ Hai (sau khi họ nghỉ ngơi vào cuối tuần). Pascual-Leone thấy rằng những thay đổi là khác nhau vào thứ Sáu và thứ Hai. Từ lúc bắt đầu nghiên cứu, các bản đồ thứ Sáu cho thấy sự mở rộng rất nhanh và mạnh mẽ, nhưng đến thứ Hai, các bản đồ này đã trở về lại kích thước chuẩn của chúng. Các bản đồ Thứ Sáu tiếp tục phát triển trong sáu tháng— ngoan cố quay trở lại kích thước cơ bản mỗi thứ Hai. Sau khoảng sáu tháng, các bản đồ Thứ Sáu vẫn tăng nhưng không nhiều như trong sáu tháng đầu tiên. Các Bản đồ thứ Hai cho thấy một mô hình ngược lại. Chúng không bắt đầu thay đổi cho đến sáu tháng bước vào khóa đào tạo; sau đó chúng tăng chậm và giữ nguyên ở tháng thứ mười.

Tốc độ mà các đối tượng có thể đọc chữ nổi có tương quan tốt hơn nhiều so với bản đồ Thứ Hai, và mặc dù những thay đổi vào Thứ Hai không lớn bằng thứ Sáu, nhưng chúng lại mang tính ổn định hơn. Vào cuối mười tháng, các sinh viên chữ nổi được nghỉ hai tháng. Khi họ trở lại lớp, họ được lập bản đồ lại và các bản đồ não của họ không thay đổi kể từ lần lập bản đồ Thứ hai cuối cùng. Do đó, việc đào tạo hàng ngày đã dẫn đến những thay đổi lớn trong ngắn hạn trong suốt 1 tuần. Nhưng vào cuối tuần và tháng, những thay đổi lâu dài hơn đã được nhìn thấy vào thứ Hai.

Pascual-Leone tin rằng các kết quả khác nhau vào thứ Hai và thứ Sáu cho thấy các cơ chế về tính dẻo (thần kinh) khác nhau. Những thay đổi nhanh vào thứ Sáu tăng cường các kết nối thần kinh đang tồn tại và phơi bày những con đường mòn (thần kinh) bị che giấu. Những thay đổi vào thứ Hai chậm hơn, lâu dài hơn cho thấy sự hình thành các cấu trúc hoàn toàn mới, có thể đó là sự nảy sinh của các kết nối và khớp thần kinh mới.

Hiểu được hiệu ứng rùa và thỏ này có thể giúp chúng ta hiểu được những gì ta phải làm để thực sự thông thạo các kỹ năng mới. Sau một thời gian thực hành ngắn, như khi ta nhồi nhét kiến thức chuẩn bị cho một bài kiểm tra, sự tiến bộ tương đối dễ dàng vì chúng ta có khả năng tăng cường các kết nối synap hiện có. Nhưng ta cũng nhanh chóng quên đi những gì mình đã nhồi nhét – bởi những kết nối thần kinh dễ đến, dễ đi và nhanh chóng đảo ngược. Duy trì sự tiến bộ và khiến một kỹ năng trở nên lâu bền đòi hỏi nỗ lực đều đặn từ từ để có thể hình thành các kết nối mới. Nếu một người học cho rằng anh ta không đạt được sự tiến bộ tích lũy, hoặc cảm thấy tâm trí anh ta “giống như một cái sàng (cái rây),” thì anh ta cần tiếp tục kiên trì rèn luyện kỹ năng cho đến khi anh ta đạt được “hiệu ứng thứ Hai,” mà những người đọc chữ nổi phải mất tới 6 tháng mới có được. Sự khác nhau giữa thứ Hai Thứ Sáu có thể lý giải tại sao một số người, “những chú rùa”, những người có vẻ chậm chạp trong việc nắm bắt một kỹ năng, nhưng lại có thể học được nó tốt hơn những bạn “thỏ” của họ – “những người học nhanh” sẽ chẳng giữ được những gì mà họ đã học nếu không duy trì việc luyện tập củng cố việc học.

Pascual-Leone đã mở rộng nghiên cứu của mình để kiểm tra xem người đọc chữ nổi có được nhiều thông tin như thế nào qua các đầu ngón tay của họ. Người ta biết rằng người mù có thể phát triển các giác quan phi-thị giác vượt trội và người đọc chữ nổi có được sự nhạy cảm phi thường trong các ngón tay đọc chữ nổi của họ.

Pascual-Leone muốn xem thử liệu kỹ năng tăng lên đó được tạo thuận lợi bằng cách mở rộng bản đồ cảm giác về xúc giác hoặc bằng cách thay đổi tính dẻo ở những phần khác của não bộ, chẳng hạn như vỏ não thị giác, có thể chưa được tận dụng, vì nó không còn nhận được thông tin từ đôi mắt.

Ông lập luận rằng nếu vỏ não thị giác giúp đối tượng đọc chữ nổi, thì chặn nó lại sẽ ngăn cản việc đọc chữ nổi. Và đúng như thế: khi nhóm dùng TMS để chặn vỏ não thị giác của người đọc chữ nổi nhằm tạo ra một tổn thương ảo, các đối tượng không thể đọc được chữ nổi hoặc cảm nhận bằng ngón tay đọc chữ nổi. Vỏ não thị giác được dùng để xử lý thông tin đến từ sự đụng chạm. Nhưng dùng TMS để chặn vỏ não thị giác ở người sáng mắt lại không ảnh hưởng đến khả năng cảm nhận của họ, cho thấy rằng có một điều gì đó độc đáo đang xảy ra với những người mù đọc chữ nổi: một phần não dành cho một giác quan này đã được dành cho một giác quan khác— một kiểu tái tổ chức tính dẻo (thần kinh) được đề xuất bởi Bach-y-Rita. Pascual-Leone cũng chỉ ra rằng một người càng có thể đọc chữ nổi tốt, thì vỏ não thị giác càng tham gia vào quá trình đó nhiều hơn. Bước mạo hiểm tiếp theo của anh ấy sẽ tạo ra đột phá theo một cách hoàn toàn mới, bằng cách cho thấy những suy nghĩ của chúng ta có thể làm thay đổi cấu trúc vật chất của bộ não chúng ta.

Anh ta sẽ nghiên cứu cách thức mà các ý nghĩ làm thay đổi bộ não bằng cách sử dụng TMS để quan sát những thay đổi ở bản đồ ngón tay của những người đang học chơi piano. Một trong những người hùng của Pascual- Leone, nhà giải phẫu học thần kinh người Tây Ban Nha và đoạt giải Nobel, laureate Santiago Ramon y Cajal, người đã dành cả cuộc đời sau này để tìm kiếm một cách vô vọng tính dẻo của não bộ, vào năm 1894 đã cho rằng “cơ quan của ý nghĩ, trong giới hạn nhất định, rất dễ uốn nắn và  hoàn thiện bằng các bài rèn luyện tinh thần được định hướng tốt.” Năm 1904 ông cho rằng những suy nghĩ, được lặp đi lặp lại trong “bài tập tinh thần,” phải củng cố các kết nối thần kinh hiện có và tạo ra những kết nối mới. Ông cũng có linh cảm rằng quá trình này sẽ đặc biệt rõ ràng trong các tế bào thần kinh kiểm soát các ngón tay ở những nghệ sĩ piano, những người đã thực hành bài tập tinh thần rất nhiều. Ramon y Cajal, sử dụng trí tưởng tượng của mình, đã vẽ một bức tranh về một bộ não ni-lông, nhưng thiếu công cụ để chứng minh điều đó. Còn Pascual-Leone bây giờ thì tin rằng anh ta đang có một công cụ trong TMS để kiểm tra xem liệu việc thực hành tinh thần và trí tưởng tượng trên thực tế có dẫn đến sự thay đổi vật lý hay không.

Chi tiết của thực nghiệm về trí tưởng tượng khá đơn giản và chọn ý tưởng của Cajal để chơi piano. Pascual-Leone đã dạy hai nhóm người-chưa bao giờ học piano- một chuỗi các nốt nhạc, chỉ cho họ thấy những ngón tay nào di chuyển và để cho họ nghe các nốt nhạc khi họ chơi. Sau đó, các thành viên của một nhóm, nhóm “thực hành tinh thần”, ngồi trước bàn phím piano điện, hai giờ một ngày, trong năm ngày, và tưởng tượng đang chơi khúc nhạc và nghe nó chơi,và nhóm thứ hai “thực hành bằng cơ thể” nhóm thực sự chơi nhạc trong hai giờ một ngày, trong năm ngày. Cả hai nhóm đều được lập bản đồ não trước thí nghiệm, mỗi ngày trong khi chơi, và sau đó. Sau đó cả hai nhóm được yêu cầu chơi khúc nhạc, và một máy tính đo độ chính xác của màn biểu diễn của họ.

Pascual-Leone thấy rằng cả hai nhóm học cách chơi khúc nhạc, và cả hai nhóm đều cho thấy những sự thay đổi giống nhau trong bản đồ não. Đáng chú ý, chỉ riêng việc thực hành tinh thần cũng tạo ra những thay đổi vật lý tương tự trong hệ thống vận động giống như việc thực hành chơi piano thật. Đến cuối ngày thứ năm, những thay đổi trong những tín hiệu vận động đến các cơ bắp là tương tự ở cả hai nhóm, và những người chơi piano tưởng tượng cũng chơi chính xác như những người chơi thật vào ngày thứ ba của họ.

Tuy nhiên, mức độ tiến bộ trong năm ngày ở nhóm rèn luyện tinh thần, không lớn bằng những người thực hành thực tế. Nhưng khi nhóm thực hành tinh thần kết thúc khóa huấn luyện tinh thần và được tham gia một buổi luyện đàn thật kéo dài hai giờ, thành tích tổng thể của nhóm này đã cải thiện đến mức ngang bằng thành tích của nhóm luyện đàn thất trong 5 ngày. Rõ ràng thực hành tinh thần là một cách hiệu quả để chuẩn bị cho việc học một kỹ năng thể chất nhưng với mức thực hành (thể chất) tối thiểu.

Tất cả chúng ta đều làm những gì các nhà khoa học gọi là luyện tập tinh thần hoặc tập dợt tinh thần khi chúng ta ghi nhớ câu trả lời cho một bài kiểm tra, học lời thoại cho một vở kịch, hoặc tập dợt bất kì bài biểu diễn hoặc thuyết trình nào. Nhưng vì ít người trong chúng ta làm điều đó một cách có hệ thống, chúng ta đánh giá thấp hiệu quả của nó.

Một số vận động viên và nhạc sĩ sử dụng nó để chuẩn bị cho buổi biểu diễn của họ, và đến cuối sự nghiệp của mình, nghệ sĩ dương cầm hòa nhạc Glenn Gould chủ yếu dựa vào luyện tập tinh thần khi chuẩn bị thu âm một bản nhạc.

Một trong những hình thức luyện tập tinh thần cao cấp nhất là “chơi cờ vua bằng tinh thần“, chơi cờ mà không cần bàn cơ hay quân cờ. Người chơi tưởng tượng ra bàn cờ và cách chơi, theo dõi vị trí của quân cờ. Anatoly Sharansky, nhà hoạt động nhân quyền Liên Xô, đã sử dụng cờ vua tinh thần để sống sót trong tù. Sharansky, một chuyên gia máy tính người Do Thái bị vu cáo làm gián điệp cho Mĩ năm 1977, đã ở tù chín năm, trong đó có bốn trăm ngày bị biệt giam trong xà lim lạnh lẽo, tối tăm chỉ rộng 5 đến 6 foot (khoảng nửa mét vuông). Các tù nhân chính trị bị cô lập thường bị suy sụp tinh thần vì bộ não sử dụng-nó-hay-đánh mất-nó cần kích thích từ bên ngoài để duy trì các bản đồ não của nó. Trong khoảng thời gian thiếu hụt cảm giác kéo dài này, Sharansky đã chơi cờ vua tinh thần trong nhiều tháng liên tục, điều này có thể giúp anh ta giữ cho bộ não của mình không bị suy thoái. Anh chơi cả hai quân đen và trắng, nhớ thế cờ trong đầu, từ những góc nhìn đối lập — một thách thức phi thường đối với bộ não. Sharansky từng nửa đùa nửa thật bảo với tôi rằng anh ta vẫn tiếp tục luyện cờ tinh thần để có thể tranh thủ cơ hội trở thành nhà vô địch thế giới. Sau khi được thả, nhờ phương Tây giúp đỡ bằng cách gây áp lực, anh đến Israel trở thành một bộ trưởng nội các. Khi nhà vô địch thế giới Garry Kasparov thi đấu với thủ tướng và các nhà lãnh đạo nội các, ông đã đánh bại tất cả bọn họ, ngoại trừ Sharansky.

Anatoly Sharansky

Chúng ta biết từ ảnh chụp não (quét não) những người dành một lượng lớn thời gian để thực hành tinh thần về những điều gì đang diễn ra trong bộ não của Sharansky trong khi anh ta đang ở tù. Hãy xem xét trường hợp của Rudiger Gamm, một thanh niên người Đức có trí thông minh bình thường, người đã biến mình thành một hiện tượng toán học, một người-máy tính. Dù Gamm không được sinh ra với khả năng toán học thiên bẩm, giờ đây anh ta có thể tính được những phép tính phức tạp và giải quyết các vấn đề như “68 nhân 76 bằng bao nhiêu?” trong 5 giây. Đầu độ tuổi 20, Gamm, người làm việc trong một ngân hàng, bắt đầu dành bốn giờ mỗi ngày để thực hành tính toán. Khi anh hai mươi sáu tuổi, anh đã trở thành một thiên tài tính toán, có thể kiếm sống bằng cách biểu diễn trên truyền hình. Các nhà điều tra đã kiểm tra anh ta bằng chụp ghi hình cắt lớp Positron (PET) trong khi anh ta đang tính toán. Họ phát hiện thấy anh ta có thể sử dụng đến 5 vùng não để tính toán hơn người “bình thường”. Nhà tâm lý học Anders Ericsson, một chuyên gia về phát triển chuyên môn (sự tinh thông), đã chỉ ra rằng những người như Gamm dựa vào trí nhớ dài hạn để giúp họ giải quyết các vấn đề toán học trong khi những người khác thì dựa vào trí nhớ ngắn hạn. Các chuyên gia không có sẵn các câu trả lời, nhưng họ lưu giữ những sự kiện và chiến lược then chốt để giúp họ có được câu trả lời, và họ có thể ngay lập tức truy cập được chúng, như thể chúng vốn nằm trong bộ nhớ ngắn hạn. Việc sử dụng trí nhớ dài hạn này để giải quyết vấn đề là điển hình của các chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực, và Ericsson nhận thấy rằng việc trở thành một chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực thường mất khoảng một thập kỷ nỗ lực tập trung.

Một lý do chúng ta có thể thay đổi bộ não của mình chỉ bằng cách tưởng tượng là, từ quan điểm khoa học thần kinh, việc tưởng tượng về một hành động và thực hiện hành động đó không khác nhau là mấy. Khi mọi người nhắm mắt lại và hình dung ra một vật thể đơn giản, chẳng hạn như chữ a, vỏ não thị giác sáng lên, giống như khi các đối tượng thực sự nhìn vào chữ a. Quét não cho thấy trong hành động và trí tưởng tượng, nhiều phần giống nhau của não bộ được kích hoạt. Đó là lý do tại sao tưởng tượng có thể cải thiện hiệu suất.

Trong một thí nghiệm khó tin vì nó quá đơn giản, Tiến sĩ Guang Yue và Kelly Cole cho thấy rằng tưởng tượng một người đang sử dụng cơ bắp của họ trên thực tế có thể khiến chúng săn chắc hơn. Nghiên cứu đã xem xét hai nhóm, một nhóm tập thể dục và một nhóm tưởng tượng mình đang tập thể dục.

Cả hai nhóm tập một cơ ngón tay, từ thứ Hai đến thứ Sáu, trong bốn tuần. Nhóm tập thể dục đã thực hiện 15 lần co cơ tối đa, với thời gian nghỉ hai mươi giây giữa mỗi lần. Nhóm tinh thần chỉ tưởng tượng mình đang thực hiện 15 lần co cơ tối đa, với khoảng nghỉ hai mươi giây giữa mỗi lần, đồng thời tưởng tượng đang có một giọng nói thét lên với họ “Mạnh lên! Mạnh lên! Mạnh lên!”

Vào cuối cuộc nghiên cứu, các đối tượng tập thể dục đã tăng 30% sức mạnh cơ bắp của họ, đúng như ta kỳ vọng. Còn nhóm chỉ tưởng tượng tập thể dục, trong cùng thời gian, đã tăng sức mạnh cơ bắp lên 22 phần trăm. Lời giải thích nằm trong các tế bào thần kinh vận động của não “lập trình” các chuyển động. Trong những lần căng cơ tưởng tượng này, các tế bào thần kinh chịu trách nhiệm cho việc nối các chuỗi hướng dẫn chuyển động với nhau được kích hoạt và tăng cường, dẫn đến tăng cường sức mạnh khi các cơ được căng.

Nghiên cứu này đã dẫn đến sự phát triển của những cỗ máy đầu tiên thực sự “đọc được” suy nghĩ của con người. Cỗ máy dịch-suy nghĩ kết nối với chương trình vận động ở người hay một động vật đang tưởng tượng về một hành động, giải mã dấu hiệu điện riêng biệt của ý nghĩ, và truyền đi một mệnh lệnh điện đến một thiết bị đưa ý nghĩ thành hành động. Những cái máy này có hiệu lực vì bộ não có tính dẻo (thần kinh) và làm thay đổi trạng thái và cấu trúc của não bộ khi chúng ta nghĩ, theo cách có thể được theo dõi bằng các đo lường điện tử .

Những thiết bị này hiện đang được phát triển để cho phép những người bị tê liệt hoàn toàn di chuyển đồ vật bằng suy nghĩ của họ. Khi máy móc trở nên tinh vi hơn, chúng có thể được phát triển thành máy đọc suy nghĩ, chúng nhận ra và dịch nội dung của một ý nghĩ, và có khả năng thăm dò nhiều hơn so với máy phát hiện nói dối, chỉ có thể phát hiện mức độ căng thẳng khi một người nói dối.

Những máy này được phát triển trong một vài bước đơn giản. Vào giữa những năm 1990, tại Đại học Duke, Miguel Nicolelis và John Chapin đã bắt đầu một thí nghiệm về hành vi, với mục tiêu học cách đọc suy nghĩ của một con vật. Họ đã huấn luyện một con chuột nhấn cần gạt, gắn điện tử vào cơ chế thoát-nước. Mỗi lần chuột nhấn cần gạt, cơ chế tiết ra một giọt nước cho chuột uống. Con chuột bị cắt bỏ một phần nhỏ hộp sọ và một nhóm nhỏ các điện cực nhỏ được gắn vào vỏ não vận động của nó. Những điện cực này đã ghi lại hoạt động của bốn mươi sáu tế bào thần kinh trong vỏ não vận động liên quan đến việc lập kế hoạch và lập trình các chuyển động, các tế bào thần kinh thường gửi chỉ dẫn xuống tủy sống đến các cơ. Vì mục tiêu của thí nghiệm là ghi lại các suy nghĩ, thứ vốn phức tạp, bốn mươi sáu tế bào thần kinh phải được đo đồng thời. Mỗi lần con chuột di chuyển cần gạt, Nicolelis và Chapin ghi lại sự bắn điện của bốn mươi sáu tế bào thần kinh lập trình-vận động, và các tín hiệu được gửi đến một máy tính nhỏ. Chẳng mấy chốc, máy tính đã “nhận ra” kiểu bắn để nhấn cần gạt.

Sau khi chuột quen với việc nhấn cần gạt, Nicolelis và Chapin ngắt kết nối giữa cần gạt với cơ chế giải phóng nước. Bây giờ khi chuột nhấn cần gạt, nước không chảy ra. Thất vọng, nó nhấn cần gạt nhiều lần, nhưng vô ích. Tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã kết nối cơ chế giải phóng nước với chiếc máy tính đã được kết nối với các tế bào thần kinh của chuột. Theo lý thuyết, mỗi lần chuột có ý nghĩ “nhấn cần gạt” thì máy tính sẽ nhận ra kiểu bắn điện của nơ-ron thần kinh và gửi tín hiệu đến cơ chế nhỏ 1 giọt nước.

Sau vài giờ, con chuột nhận ra nó không phải chạm vào cần gạt để lấy nước. Tất cả những gì nó phải làm là tưởng tượng bàn chân của nó ấn vào cần gạt và nước sẽ có! Nicolelis và Chapin đã huấn luyện bốn con chuột để thực hiện nhiệm vụ này.

Sau đó, họ bắt đầu dạy những con khỉ thực hiện những bản dịch-suy nghĩ phức tạp hơn. Belle, một con khỉ cú, được huấn luyện để sử dụng cây gậy-niềm vui để theo dõi ánh sáng khi nó di chuyển trên màn hình video. Nếu cô thành công thì sẽ được uống một giọt nước ép trái cây. Mỗi lần cô di chuyển cây gậy niềm vui, các tế bào thần kinh của cô bắn điện và mô hình được phân tích về mặt toán học bởi một máy tính.  Mô hình bắn nơ-ron thần kinh luôn xảy ra 300 mili giây trước khi Belle thực sự di chuyển cây gậy niềm vui, vì phải mất thời gian rất lâu để não bộ của cô gửi lệnh xuống tủy sống đến cơ bắp. Khi cô di chuyện gậy sang bên phải, một mô hình “di chuyển cánh tay sang bên phải” xuất hiện trong não cô và máy tính đã phát hiện ra nó; Khi cô di chuyển cánh tay sang bên trái, máy tính phát hiện ra mô hình đó. Sau đó, máy tính đã chuyển đổi các mô hình toán học này thành các lệnh được gửi đến một cánh tay robot, khuất khỏi tầm nhìn của Belle. Các mô hình toán học cũng được truyền từ Đại học Duke đến một cánh tay robot thứ hai trong phòng thí nghiệm ở Cambridge, Massachusetts. Một lần nữa, như trong thí nghiệm với chuột, không có mối liên hệ nào giữa cây gậy niềm vui và cánh tay robot; cánh tay robot kết nối với máy tính, đọc các mô hình trong tế bào thần kinh của Belle. Hy vọng là cánh tay robot ở Duke và ở Cambridge sẽ di chuyển chính xác khi cánh tay của Belle di chuyển, 300 mili giây sau khi cô nghĩ.

Khi các nhà khoa học thay đổi ngẫu nhiên kiểu ánh sáng trên màn hình máy tính và cánh tay thật của Belle di chuyển cây gậy niềm vui, và cánh tay robot ở cách đó 600 dặm cũng làm theo, chỉ hoạt động nhờ những ý nghĩ của cô được truyền tín hiệu bởi máy vi tính. Kể từ đó, nhóm nghiên cứu đã dạy một số con khỉ chỉ sử dụng suy nghĩ của chúng để di chuyển một cánh tay robot theo bất kỳ hướng nào trong không gian ba chiều, để thực hiện các chuyển động phức tạp— chẳng hạn như tiếp cận và túm lấy các vật thể. Các con khỉ cũng chơi video games (và có vẻ thích chúng) chỉ sử dụng ý nghĩ của chúng để di chuyển con trỏ chuột trên màn hình và tiêu diệt một mục tiêu đang chuyển động.

Nicolelis và Chapin hy vọng rằng nghiên cứu của họ sẽ giúp được cho các bệnh nhân mắc nhiều chứng liệt khác nhau. Điều đó đã xảy ra vào tháng 7 năm 2006, khi một nhóm được lãnh đạo bởi nhà thần kinh học John Donoghue, từ Đại học Brown, đã sử dụng một kỹ thuật tương tự với một người.

Người đàn ông hai mươi lăm tuổi, Matthew Nagle, đã bị đâm vào cổ và bị liệt ở cả bốn chi do chấn thương tủy sống. Một con chip silicon nhỏ, không gây đau với hàng trăm điện cực được cấy vào não anh ta và gắn vào máy tính. Sau bốn ngày luyện tập, anh ta đã có thể di chuyển con trỏ máy tính trên màn hình, mở e-mail, đổi kênh TV và điều chỉnh âm lượng trên tivi, chơi trò chơi trên máy tính và điều khiển cánh tay robot bằng suy nghĩ của mình. Những bệnh nhân bị loạn dưỡng cơ, đột quỵ và bệnh thần kinh vận động được lên kế hoạch để dùng thử các thiết bị dịch-ý nghĩ tiếp theo. Mục tiêu cuối cùng trong các phương pháp này là cấy được một mảng vi điện cực nhỏ, với pin và một bộ truyền có kích thước bằng một cái móng tay của em bé trong vỏ não vận động. Một máy tính nhỏ có thể được kết nối với cánh tay robot hoặc kết nối không dây với một bộ kiểm soát xe lăn hoặc với các điện cực được cấy vào cơ bắp để kích hoạt chuyển động. Một số nhà khoa học hy vọng sẽ phát triển một công nghệ ít xâm lấn hơn các vi điện cực để phát hiện sự bắn điện của tế bào thần kinh— có thể là một biến thể của TMS, hoặc một thiết bị mà Taub và các đồng nghiệp đang phát triển để phát hiện những thay đổi của sóng não.

Điều mà những thí nghiệm về “trí tưởng tượng” này chỉ ra đó là trí tưởng tượng và hành động thực sự thống nhất với nhau như thế nào, mặc dù thực tế là chúng ta có xu hướng tin rằng trí tưởng tượng và hành động là hoàn toàn khác nhau và tuân theo các quy tắc khác nhau. Nhưng hãy xem xét điều này: trong một số trường hợp, bạn càng có thể tưởng tượng một việc gì đó nhanh hơn, thì bạn càng có thể làm nó nhanh hơn. Jean Decety ở Lyon, Pháp, đã thực hiện các phiên bản khác nhau của một thí nghiệm đơn giản. Khi bạn tính thời gian xem mất bao lâu để tưởng tượng viết tên bạn bằng “tay thuận” của bạn, và sau đó viết nó ra, khoảng thời gian tưởng tượng và thời gian viết là như nhau. Khi bạn tưởng tượng viết tên bạn bằng tay không thuận, bạn sẽ mất thời gian lâu hơn để tưởng tượng nó và viết nó ra. Đa số những người thuận tay phải nhận thấy “bàn tay trái tinh thần” của họ chậm hơn “bàn tay phải tinh thần” của họ. Trong các nghiên cứu về bệnh nhân bị đột quỵ hoặc mắc bệnh Parkinson (khiến cho những động tác của họ chậm chạp). Decety quan sát thấy rằng bệnh nhân mất nhiều thời gian hơn để tưởng tượng việc di chuyển chi bị ảnh hưởng hơn so với người không bị ảnh hưởng. Cả hành động và tưởng tượng tinh thần được coi là trở nên chậm chạp bởi vì chúng đều là sản phẩm của cùng một chương trình vận động trong não bộ. Tốc độ mà chúng ta tưởng tượng có lẽ bị hạn chế bởi tốc độ bắn nơ-ron thần kinh của các chương trình vận động của chúng ta.

Pascual-Leone đã tìm hiểu cặn kẽ về cách thức mà tính dẻo thần kinh, thứ thúc đẩy sự thay đổi, cũng có thể dẫn đến sự cứng nhắc và lặp đi lặp lại trong não bộ, và những hiểu biết sâu sắc đó giúp xử lý nan đề này: nếu bộ não của chúng ta có tính dẻo và có thể thay đổi được thì tại sao chúng ta thường bị kẹt trong (hành vi) lặp đi lặp lại cứng nhắc? Câu trả lời trước hết nằm ở cách ta hiểu bộ não có tính dẻo dai như thế nào.

Plasticina, anh ấy nói với tôi, là từ tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “dẻo”, và nó nắm bắt được một điều gì đó mà từ tiếng Anh không làm được. Plasticina, trong tiếng Tây Ban Nha, cũng là tử chỉ về “Play-Doh” hoặc  “plasticine” và mô tả về một chất (vật chất, tính chất) về cơ bản là ấn tượng. Đối với anh ta, bộ não của chúng ta rất dẻo đến nỗi ngay cả khi chúng ta thực hiện cùng một hành vi ngày này qua ngày khác,  các kết nối thần kinh chịu trách nhiệm mỗi lần hơi khác nhau vì những gì mà chúng ta đã làm trong khoảng thời gian can thiệp.

“Tôi tưởng tượng,” Pascual-Leone nói, “hoạt động của bộ não cũng giống như đồ chơi đất nặn Play-Doh.” Chúng ta nặn được tất cả mọi thứ từ cục Play-Doh. Nhưng, anh nói thêm, “Nếu bạn bắt đầu với một gói Play-Doh là một hình vuông, và sau đó bạn tạo ra một quả bóng từ nó, thì nó có thể quay lại hình vuông. Nhưng nó sẽ không phải là hình vuông giống như lúc bạn bắt đầu.”  Các kết quả xuất hiện tương tự nhưng không giống nhau. Các phân tử trong hình vuông mới được sắp xếp khác so với trong hình cũ. Nói cách khác, những hành vi tương tự, được thực hiện tại các thời điểm khác nhau, sử dụng các mạch não khác nhau. Đối với anh ta, ngay cả khi một bệnh nhân có vấn đề về thần kinh hoặc tâm lý được “chữa khỏi” , thì phương pháp chữa trị đó không bao giờ đưa bộ não của bệnh nhân trở về trạng thái tồn tại như trước kia.

“Hệ thống có tính dẻo, nhưng không đàn hồi,” Pascual-Leone nói với giọng sang sảng. Một sợi dây thun có thể được kéo dài, nhưng nó luôn trở lại hình dạng trước đây và các phân tử không được tái sắp xếp trong quá trình này. Còn bộ não ni-lông bị thay đổi mãi mãi bởi mọi cuộc gặp gỡ, mọi tương tác.

Vì vậy, câu hỏi trở thành, nếu bộ não dễ dàng thay đổi, làm thế nào chúng ta được bảo vệ trước sự thay đổi liên tục?Quả thực, nếu bộ não giống như Play-Doh, làm sao mà chúng ta vẫn còn là chính mình? Các gen của chúng ta mang lại cho ta sự nhất quán, trong một chừng mực nào đó, và sự lặp đi lặp lại cũng vậy.

Pascual-Leone giải thích điều này bằng một phép ẩn dụ. Bộ não ni-lông giống như một ngọn đồi tuyết vào mùa đông. Các khía cạnh của ngọn đồi đó – độ dốc, đá, tính nhất quán của tuyết – giống như gen của chúng ta, là một sự ấn định. Khi chúng ta trượt xuống đồi trên xe trượt tuyết, chúng ta có thể lái xe trượt và sẽ kết thúc ở dưới chân đồi núi bằng cách chạy theo một con đường được quyết định bởi cách ta lái xe và đặc điểm của ngọn đồi. Địa điểm chính xác mà chúng ta sẽ đáp thì khó dự đoán bởi vì có rất nhiều yếu tố tham gia.

“Nhưng,” Pascual-Leone nói, “Điều chắc chắn sẽ xảy ra khi bạn xuống dốc lần thứ hai là khả năng cao bạn sẽ thấy mình ở chỗ nào đó gần gần với con đường mà bạn đã đi ở lần đầu tiên. Nó sẽ không chính xác là con đường đó, nhưng nó sẽ là gần với con đường đó hơn bất kỳ con đường nào khác. Và nếu bạn dành cả buổi chiều để trượt xuống, đi lên, trượt xuống, cuối cùng bạn sẽ có một số con đường được đi rất nhiều lần, và một số con đường được đi rất ít… và sẽ có những con đường mòn mà bạn đã tạo ra, và bạn rất khó mà thoát ra khỏi những con đường mòn đó. Và những con đường mòn đó không phải do yếu tố di truyền quy định.”

“Con đường mòn” tinh thần được tạo nên đó có thể dẫn đến các thói quen, tốt hay xấu. Nếu chúng ta phát triển thói quen xấu, nó trở nên khó sửa. Nếu chúng ta phát triển những thói quen tốt, chúng cũng trở nên vững chắc.  Khi “những con đường món” hay con đường thần kinh đã được lập nên, liệu ta có thể thoát ra khỏi con đường đó và đi theo những con đường khác hay không? Có chứ, theo Pascual-Leone, nhưng việc này sẽ khó khăn vì một khi chúng ta đã tạo ra những lối mòn đó, chúng trở nên “thực sự nhanh chóng” và rất hiệu quả trong việc hướng dẫn chiếc xe trượt xuống đồi. Để đi theo một con đường khác trở nên ngày càng khó. Một rào cản là cần thiết để giúp chúng ta thay đổi phương hướng. Trong thí nghiệm tiếp theo của mình, Pascual-Leone đã phát triển việc sử dụng các rào chắn và cho thấy sự thay đổi của các con đường đã được thiết lập và tái tổ chức tính dẻo ồ ạt có thể xảy ra với tốc độ không ngờ.

Nghiên cứu của anh sử dụng các rào cản bắt đầu khi anh ấy nghe về một trường nội trú bất thường ở Tây Ban Nha, nơi các giáo viên dạy cho học sinh khiếm thị tham gia vào một nghiên cứu. Họ bị bịt mắt trong một tuần để trực tiếp trải nghiệm tình trạng mù mắt. Một tấm vải bịt mắt là vật rào cản cho cảm giác thị giác, và trong một tuần, các giác quan xúc giác và khả năng phán đoán không gian của họ đã trở nên cực kỳ nhạy cảm. Họ có thể phân biệt các loại xe máy bằng âm thanh của động cơ và phân biệt các vật thể trên đường đi của họ bằng tiếng vang vọng của chúng. Khi các giáo viên này được tháo khăn bịt mắt, lúc đầu họ bị mất phương hướng và không thể phán đoán không gian hay nhìn thấy.

Khi Pascual-Leone nghe về ngôi trường bóng tối này, anh nghĩ: “Hãy chọn những người sáng mắt và làm cho họ hoàn toàn bị mù.”

Anh ta bịt mắt mọi người trong năm ngày, sau đó lập bản đồ bộ não của họ bằng TMS. Anh ta phát hiện ra rằng khi anh ta chặn hết ánh sáng— Vật cản phải không thể thâm nhập được— vỏ não thị giác của các đối tượng bắt đầu xử lý cảm giác xúc giác đến từ bàn tay của họ, giống như bệnh nhân mù học chữ nổi. Tuy nhiên, điều đáng kinh ngạc nhất là bộ não đã tự tổ chức lại chỉ sau vài ngày.

Với quét não, Pascual-Leone cho thấy có thể mất ít nhất hai ngày để vỏ não “thị giác” bắt đầu xử lý tín hiệu xúc giác và thính giác. (Cũng như vậy, nhiều đối tượng bị bịt mắt báo cáo rằng khi họ di chuyển, hoặc chạm vào hoặc nghe thấy âm thanh, họ bắt đầu có ảo giác thị giác về những cảnh đẹp, phức tạp của các thành phố, bầu trời, hoàng hôn, nhân vật Lilliputian, các nhân vật hoạt hình.) Bóng tối tuyệt đối là điều cần thiết cho sự thay đổi vì thị giác là một giác quan rất mạnh mẽ đến nỗi nếu có bất kỳ ánh sáng nào lọt vào, vỏ não thị giác sẽ thích xử lý nó hơn là kích thích âm thanh và xúc giác. Pascual-Leone đã có khám phá, cũng giống như Taub, là để phát triển một con đường mòn mới, bạn phải chặn hoặc hạn chế đối thủ cạnh tranh của nó, thường là con đường được sử dụng nhiều nhất.  Sau khi tháo vải bịt mắt, vỏ não thị giác của đối tượng ngừng phản ứng với kích thích xúc giác hoặc thính giác trong vòng mười hai đến bốn giờ.

Tốc độ mà vỏ thị giác chuyển sang xử lý âm thanh và xúc giác đã đặt ra một câu hỏi lớn cho Pascual-Leone. Ông tin rằng không có đủ thời gian trong hai ngày để bộ não làm mới lại bản thân một cách triệt để như vậy. Khi các dây thần kinh được đặt trong một nền văn hóa tăng trưởng, chúng phát triển nhiều nhất là một milimet mỗi ngày. Vỏ não “thị giác” chỉ có thể bắt đầu xử lý các giác quan khác một cách nhanh chóng khi những kết nối tới các nguồn đó đã tồn tại sẵn từ trước. Pascual-Leone, làm việc với Roy Hamilton, đã đưa ra ý tưởng rằng những con đường (mòn) đã có từ trước được phơi bày ra và đẩy nó tiến thêm một bước để đề xuất một lý thuyết rằng loại tái tổ chức bộ não triệt để mà ta nhìn thấy ở trường học bóng tối không phải là ngoại lệ mà là quy luật. Bộ não con người có thể tổ chức lại rất nhanh vì các bộ phận riêng lẻ của bộ não không nhất thiết chỉ cam kết xử lý các giác quan cụ thể. Chúng ta có thể, và thường xuyên, sử dụng các phần của bộ não của chúng ta cho nhiều nhiệm vụ khác nhau.

Như chúng ta đã thấy, hầu hết tất cả các lý thuyết hiện tại của bộ não là thuyết chủ nghĩa cục bộ khô khan cho rằng vỏ não cảm giác xử lý từng giác quan— thị giác, thính giác, xúc giác— ở các vị trí dành riêng cho việc xử lý chúng. Cụm từ “vỏ não thị giác” giả định rằng mục đích duy nhất của vùng não đó là xử lý thị giác, cũng giống như cụm từ “vỏ não thính giác” và “vỏ não cảm giác xô-ma” giả định một mục đích ở những khu vực khác.

Nhưng, Pascual-Leone nói, “bộ não của chúng ta không thực sự được tổ chức theo các hệ thống xử lý một phương thức cảm giác nhất định. Thay vào đó, bộ não của chúng ta được tổ chức thành một loạt các toán tử cụ thể.”

Một toán tử (operator) là một bộ xử lý trong não bộ, thay vì xử lý đầu vào từ một giác quan duy nhất, chẳng hạn như thị giác, xúc giác hoặc thính giác, thì nó xử lý nhiều thông tin trừu tượng hơn. Một toán tử xử lý thông tin về các mối quan hệ không gian, những chuyển động khác và những hình dạng khác. Các mối quan hệ không gian, chuyển động và các hình dạng là những thông tin được xử lý bởi nhiều giác quan khác nhau của chúng ta. Chúng ta có thể vừa cảm nhận vừa nhìn thấy sự khác biệt về không gian — bàn tay của một người rộng đến mức nào – vì chúng ta có thể cảm nhận và nhìn thấy chuyển động và hình dạng. Một vài toán tử có thể chỉ hữu ích cho một cảm giác duy nhất (ví dụ: toán tử màu), nhưng các toán tử không gian, chuyển động và hình dạng xử lý các tín hiệu từ nhiều hơn một cảm giác.

Một toán tử được lựa chọn bởi sự cạnh tranh. Lý thuyết toán tử đưa ra lý thuyết về sự lựa chọn nhóm nơ-ron được phát triển vào năm 1987 bởi Gerald Edelman, người từng đoạt giải thưởng Nobel, người đã đề xuất rằng đối với bất kỳ hoạt động nào của não bộ, nhóm tế bào thần kinh giỏi nhất được lựa chọn để làm nhiệm vụ. Có một sự cạnh tranh gần giống với học thuyết Darwin— một học thuyết Đắc-uyn về thần kinh học, sử dụng cụm từ của Gerald Edelman — thường xuyên diễn ra giữa các toán tử để xem những toán tử nào có thể xử lý hiệu quả nhất những tín hiệu đến từ một giác quan cụ thể nào đó và trong một hoàn cảnh cụ thể.

Lý thuyết này cung cấp một cây cầu nho nhã giữa những người theo chủ nghĩa cục bộ nhấn mạnh vào những thứ có xu hướng chỉ diễn ra ở những khu vực cụ thể nào đó, và sự nhấn mạnh của các nhà khoa học thần kinh về tính dẻo não bộ về khả năng tự tái cấu trúc của não. Điều nó ngụ ý là những người học một kỹ năng mới có thể tuyển thêm các toán tử dành cho các hoạt động khác, tăng sức mạnh xử lý của chúng lên rất nhiều, miễn là họ có thể tạo ra một rào cản giữa toán tử mà họ cần và chức năng thông thường của nó.

Một ai đó đứng trước một nhiệm vụ xử lý thính giác gây quá tải, chẳng hạn như ghi nhớ sử thi Iliad của Homer, có thể bịt mắt anh ta lại để chiêu mộ thêm các toán tử thường dành cho thị giác, vì nhiều toán tử ở vỏ não thị giác có thể xử lý âm thanh. Vào thời của Homer, những bài thơ dài được sáng tác và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở dạng truyền miệng. (theo truyền thuyết thì bản thân Homer bị mù.) Việc ghi nhớ là rất cần thiết trong các nền văn hóa tiền văn tự; thực vậy, nạn mù chữ có thể đã thúc đẩy bộ não của mọi người phân công cho nhiều toán tử đảm nhận nhiệm vụ xử lý thính giác. Những chiến công như vậy của trí nhớ bằng miệng vẫn có thể đạt được trong các nền văn hóa đã có chữ viết nếu người ta có đủ động lực. Trong nhiều thế kỷ người Yemen Do Thái đã dạy con cái họ học thuộc toàn bộ kinh  Torah, và ngày nay trẻ em ở Iran đã thuộc hết kinh Koran.

Chúng ta đã thấy rằng việc tưởng tượng về một hành động có cùng chương trình cảm giác và vận động liên quan đến việc thực hiện nó. Từ lâu chúng ta đã xem đời sống tưởng tượng của mình như một thứ gì đó thiêng liêng: cao quý, thuần khiết, phi vật chất và thanh tao, tách biệt khỏi bộ não vật chất của chúng ta. Nhưng bây giờ thì chúng ta không thể nào chắc chắn về ranh giới giữa chúng.

Tất cả mọi thứ mà tâm trí “vô hình” của bạn tưởng tượng đều để lại dấu vết vật chất. Mỗi suy nghĩ làm thay đổi trạng thái vật lý của bộ não của bạn đồng bộ ở mức độ vi mô. Mỗi khi bạn tưởng tượng việc di chuyển các ngón tay của mình trên các phím đàn để chơi piano, bạn sẽ thay đổi các đường gân trong bộ não của bạn.

Những thí nghiệm này không chỉ thú vị và hấp dẫn, mà còn đánh đổ sự lẫn lộn tồn tại hàng thế kỷ phát sinh từ nghiên cứu của nhà triết học người Pháp Rene Descartes, ông cho rằng tâm trí và bộ não được tạo ra từ các chất khác nhau và bị chi phối bởi các định luật khác nhau. Bộ não, ông tuyên bố, là một loại vật chất, tồn tại trong không gian và tuân theo các định luật vật lý. Tâm trí (hay linh hồn, theo cách gọi của Descartes) là phi vật chất, một thứ suy nghĩ không chiếm không gian hoặc không tuân theo các quy luật vật lý. Ông lập luận rằng, những suy nghĩ bị chi phối bởi các quy luật của suy luận, phán đoán và những ham muốn, chứ không bị chi phối với các quy luật vật lý của nhân-quả. Con người bao gồm tính hai mặt này, cuộc hôn nhân của tâm trí phi vật chất và bộ não vật chất.

Nhưng Descartes — người có sự phân chia tâm trí/cơ thể đã thống trị khoa học trong bốn trăm năm— không bao giờ có thể đưa ra lời giải thích đáng tin cậy làm thế nào tâm trí vô hình, phi vật chất có thể ảnh hưởng đến bộ não vật chất. Kết quả là, mọi người bắt đầu hoài nghi rằng một ý nghĩ vô hình (phi vật chất) hay chỉ đơn thuần là chuyện tưởng tượng, có thể làm thay đổi bộ não vật chất. Quan điểm của Descartes dường như mở ra một khoảng cách không thể dung hòa được giữa tâm trí và bộ não.

Nỗ lực cao cả của ông ta để giải cứu bộ não khỏi chủ nghĩa thần bí bao quanh nó trong thời đại của ông ta, bằng cách biến nó thành máy móc, đã thất bại. Bộ não bị coi là một cỗ máy trơ trơ, vô tri vô giác chỉ bị thúc đẩy hành động bởi một thứ vô hình (phi vật chất), linh hồn giống như con ma mà Descartes đã đặt vào trong nó, mà sau này gọi là “con ma trong cỗ máy.” Bằng cách mô tả một bộ não cơ học, Descartes đã rút hết sự sống ra khỏi nó và làm chậm đi sự chấp nhận về tính dẻo thần kinh của bộ não hơn bất cứ nhà tư tưởng nào khác. Bất kỳ tính dẻo nào— bất kỳ khả năng thay đổi nào mà chúng ta có —tồn tại trong tâm trí, với những ý nghĩ thay đổi của nó, chứ không phải trong bộ não.

Nhưng bây giờ chúng ta có thể thấy rằng những suy nghĩ “phi vật chất” của chúng ta cũng có dấu hiệu vật lý (vật chất), và chúng ta không thể chắc chắn rằng suy nghĩ đó một ngày nào đó sẽ không được giải thích bằng thuật ngữ vật lý. Trong khi chúng ta vẫn chưa hiểu chính xác cách suy nghĩ thực sự thay đổi cấu trúc não bộ như thế nào, nhưng điều rõ ràng bây giờ là chúng thực sự làm thay đổi bộ não, và đường thẳng vững chắc mà Descartes vẽ giữa tâm trí và não bộ đang ngày càng trở thành một đường chấm chấm.

Chương 9: Phân tâm học là một liệu pháp khả biến thần kinh

Anh L. đã bị trầm cảm tái phát trong hơn 40 năm và gặp khó khăn trong mối quan hệ với phụ nữ. Khi anh ấy tìm sự trợ giúp từ tôi, anh đang ở độ tuổi cuối năm mươi và gần đây mới nghỉ hưu.

Vào đầu những năm 1990, rất ít bác sĩ tâm thần vào thời đó hiểu được bộ não có tính dẻo, và người ta thường tin rằng những người gần sáu mươi tuổi thì “có thói quen quá cứng nhắc” để hưởng lợi từ một liệu pháp nhằm không chỉ giải thoát họ khỏi các triệu chứng mà còn thay đổi những khía cạnh trong tính cách của họ một cách dài lâu.

Anh L. là người luôn luôn khách sáo và lịch sự. Anh ấy thông minh, tinh tế, và nói một cách ngắn gọn, sơ sài, không có nhiều cảm xúc trong giọng nói của anh ta. Anh ngày càng trở nên cách biệt khi nói về cảm xúc của mình.

Ngoài những cơn trầm cảm nặng, vốn chỉ đáp ứng phần nào với thuốc chống trầm cảm, anh còn có một kiểu tâm trạng kỳ lạ thứ hai. Anh thường bị tấn công bởi một cảm giác bí ẩn – dường như không biết từ đâu đến – của sự tê liệt, chết lặng và vô mục đích, như thể thời gian đã ngừng lại. Anh cũng cho biết là mình uống rượu rất nhiều.

Anh đặc biệt cảm thấy khó chịu về mối quan hệ của mình với phụ nữ. Ngay khi anh hẹn hò yêu đương, anh sẽ bắt đầu rút lui, với cảm giác rằng “có một phụ nữ tốt hơn ở nơi khác mà tôi đang bị từ chối.”

Anh ta đã nhiều lần không chung thủy với vợ và hệ quả là cuộc hôn nhân tan vỡ, một kết quả mà anh thấy rất hối hận. Tệ hơn là anh ta không chắc tại sao mình lại thiếu chung thủy, vì anh rất tôn trọng vợ. Anh đã cố gắng nhiều lần để quay lại với cô, nhưng cô từ chối.

Anh ta không biết rõ tình yêu là gì, chưa bao giờ biết ghen hay có tâm lý sở hữu người khác, và lúc nào cũng cảm thấy phụ nữ muốn “sở hữu” anh. Anh tránh cả cam kết và xung đột với phụ nữ. Anh hết lòng vì con cái nhưng cảm thấy gắn bó với con vì ý thức trách nhiệm hơn là tình cảm vui vẻ. Cảm giác này làm anh đau lòng bởi lũ trẻ rất yêu thương cha

Khi Anh L. được hai mươi sáu tháng tuổi, mẹ anh qua đời khi sinh hạ em gái anh. Anh không tin rằng cái chết của bà đã ảnh hưởng nhiều đến mình. Anh có bảy anh chị em, và bây giờ người chu cấp duy nhất của họ là cha, một nông dân, người điều hành trang trại biệt lập mà họ sống không có điện nước, ở một quận nghèo trong cuộc Đại khủng hoảng. Một năm sau, Anh L. bị bệnh kinh niên về đường tiêu hóa cần được chú ý liên tục. Khi anh lên bốn tuổi, cha anh không thể chăm sóc cho cả anh và các anh chị anh, nên đã gửi anh đến sống cùng vợ chồng người dì đã lập gia đình nhưng không có con cách nhà một ngàn dặm. Trong hai năm, mọi thứ trong cuộc đời ngắn ngủi của Anh L. đã thay đổi. Anh ta đã mất mẹ, cha, anh chị em, sức khỏe, ngôi nhà, ngôi làng và tất cả những thứ quen thuộc — mọi thứ anh ta quan tâm và từng gắn bó. Và bởi vì anh ta lớn lên với những người đã quen cắn răng chịu khổ và tỏ ra mạnh mẽ, nên cả cha anh lẫn gia đình nhận nuôi anh không nói gì nhiều về những mất mát của anh với anh.

Anh L. cho biết anh không có ký ức từ bốn tuổi trở về trước và rất ít ký ức về thời niên thiếu. Anh không cảm thấy buồn về những gì đã xảy ra với mình và không bao giờ khóc, ngay cả khi đã trưởng thành – về bất cứ điều gì. Thật vậy, anh ta nói như thể chẳng có chuyện gì xảy ra với anh. Tại sao tôi phải nhận ra? anh hỏi. Chẳng phải tâm trí của trẻ em còn chưa hình thành đầy đủ để ghi lại những sự kiện đầu đời?

Tuy nhiên, có một số mang mối cho thấy những mất mát của anh đã biểu lộ. Khi anh kể lại câu chuyện đời mình, trông anh cứ như thể vẫn còn đang sốc sau ngần ấy năm. Anh cũng bị ám ảnh bởi những giấc mơ mà ở đó anh luôn tìm kiếm thứ gì đó. Như Freud đã phát hiện ra, những giấc mơ lặp đi lặp lại, với cấu trúc tương đối không thay đổi, thường chứa đựng những mảnh ký ức của sang chấn đầu đời.

Anh L. mô tả về một giấc mơ điển hình như sau:

Tôi đang tìm kiếm thứ gì đó, tôi không biết nó là gì, một vật thể không xác định, có thể là một món đồ chơi, nằm ngoài lãnh thổ quen thuộc…Tôi muốn nó trở lại một lần nữa.

Nhận xét duy nhất của anh là giấc mơ đại diện cho “một mất mát khủng khiếp”. Nhưng điều đáng chú ý là anh đã không liên kết nó với sự mất mát của mẹ hoặc gia đình.

Nhờ hiểu được giấc mơ này, anh L. sẽ học cách yêu thương, thay đổi các khía cạnh quan trọng trong tính cách của mình và loại bỏ các triệu chứng đã tồn tại suốt 40 năm của mình, trong liệu pháp phân tâm) kéo dài từ độ tuổi 58 đến 62. Sự thay đổi này có thể xảy ra là bởi vì phân tâm học trên thực tế là một liệu pháp khả biến thần kinh.

Trong nhiều năm nay, cách chữa trị theo truyền thống từ nhiều phía cho rằng phân tâm học–phương pháp “chữa trị bằng cách nói chuyện,” và những liệu pháp tâm lý khác không phải là những cách nghiêm túc để điều trị các triệu chứng tâm thần và các vấn đề về tính cách. Các phương pháp điều trị “Nghiêm trọng” đòi hỏi thuốc chứ không chỉ có mỗi “nói chuyện về những suy nghĩ và cảm xúc”, bởi không thể ảnh hưởng đến bộ não hoặc thay đổi tính cách-những thứ ngày càng được coi là sản phẩm của gen chúng ta.

Nghiên cứu của bác sĩ tâm thần và nhà nghiên cứu Eric Kandel là thứ đầu tiên lôi cuốn tôi trong lĩnh vực khả biến thần kinh khi tôi thuộc về Khoa Tâm thần học của Đại học Columbia, nơi ông dạy và có một sức ảnh hưởng lớn đến tất cả mọi người có mặt. Kandel là người đầu tiên chỉ ra rằng khi chúng ta học tập, các tế bào thần kinh cá nhân của chúng ta thay đổi cấu trúc của chúng và và tăng cường các kết nối khớp thần kinh giữa chúng. Ông cũng là người đầu tiên chứng minh rằng khi chúng ta hình thành ký ức dài hạn, các nơ-ron thay đổi hình dạng giải phẫu và tăng số lượng các kết nối synap mà chúng có với các nơ-ron khác—công trình mà ông đã giành giải thưởng Nobel năm 2000.

Eric Kandel

Kandel trở thành bác sĩ và bác sĩ tâm thần, với hy vọng được thực hành phân tâm học. Nhưng nhiều người bạn (là nhà phân tâm học) đã khuyên ông nghiên cứu về não bộ, việc học và trí nhớ, những thứ mà người ta ít biết đến, để hiểu sâu hơn về lý do tại sao trị liệu tâm lý lại có hiệu quả và làm sao cải thiện nó. Sau một số khám phá ban đầu, Kandel quyết định trở thành một nhà khoa học thí nghiệm toàn thời gian, nhưng ông chưa bao giờ đánh mất hứng thú trong việc tìm hiểu cách tâm trí và bộ não thay đổi trong phân tâm học.

Ông bắt đầu nghiên cứu một con ốc biển khổng lồ, được gọi là Aplysia, chúng có những tế bào thần kinh lớn bất thường— các tế bào của nó rộng một milimet và có thể nhìn thấy bằng mắt thường— có thể cho ta một cánh cửa đi vào thế giới của những chức năng của mô thần kinh ở con người. Sự tiến hóa có tính bảo thủ, và các hình thức học tập cơ bản hoạt động theo cùng một cách cả ở động vật có hệ thần kinh đơn giản và ở người.

Hy vọng của Kandel là “bẫy” một phản ứng học hỏi ở nhóm tế bào thần kinh nhỏ nhất mà ông có thể tìm thấy, và nghiên cứu nó. Ông ta tìm thấy một mạch đơn giản trong con ốc, mà ông có thể loại bỏ một phần khỏi con vật bằng cách mổ xẻ và giữ cho nó còn sống và còn nguyên vẹn trong nước biển. Bằng cách này, ông ta có thể nghiên cứu nó, trong khi nó còn sống và trong khi nó học.

Hệ thần kinh đơn giản của ốc biển có các tế bào cảm giác phát hiện nguy hiểm và gửi tín hiệu đến các tế bào thần kinh vận động của nó, hoạt động theo phản xạ để bảo vệ nó. Ốc sên biển thở bằng mang của chúng, được bao phủ bởi một mô thịt gọi là siphon. Nếu các tế bào thần kinh cảm giác trong siphon phát hiện ra một kích thích lạ hoặc nguy hiểm, chúng sẽ gửi một thông điệp tới sáu tế bào thần kinh vận động bắn điện, khiến các cơ xung quanh mang kéo cả siphon và mang trở lại an toàn vào ốc, nơi chúng được bảo vệ. Đây là mạch mà Kandel nghiên cứu bằng cách đặt các vi điện cực vào tế bào thần kinh.

Ông có thể chỉ ra rằng khi con ốc học cách tránh chấn động và thu mang của nó vào, hệ thống thần kinh của nó đã thay đổi, tăng cường các kết nối khớp thần kinh giữa các tế bào thần kinh cảm giác và vận động và phát ra các tín hiệu mạnh hơn được phát hiện bởi các vi điện cực. Đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy việc học dẫn đến việc tăng cường khả biến (tính dẻo) thần kinh của các kết nối giữa các tế bào thần kinh.

Nếu ông ta lặp lại những cú sốc trong một thời gian ngắn, những con ốc trở nên “nhạy cảm”, do đó chúng phát triển “nỗi sợ do học được” và xu hướng phản ứng thái quá ngay cả với những kích thích lành tính hơn, cũng như con người bị chứng rối loạn lo âu. Khi những con ốc sên phát triển ‘nỗi sợ do học được’, các tế bào thần kinh tiền synap giải phóng nhiều chất truyền tin hóa học vào khớp thần kinh, phát ra tín hiệu mạnh hơn. Sau đó, ông cho thấy những con ốc sên có thể được dạy để nhận ra một kích thích là vô hại. Khi siphon của ốc sên được chạm nhẹ nhàng lặp đi lặp lại và không bị sốc, các khớp thần kinh dẫn đến phản xạ thu mang đã yếu đi và cuối cùng con ốc đã bỏ qua cú chạm. Cuối cùng, Kandel đã có thể chỉ ra rằng ốc sên cũng có thể học cách liên kết hai sự kiện khác nhau và hệ thống thần kinh của chúng thay đổi trong quá trình này. Khi ông ta gây cú sốc ở đuôi ốc, rồi ngay lập tức sau đó ông cho ốc sên một kích thích lành tính, chẳng mấy chốc tế bào thần kinh cảm giác của ốc sên đã phản ứng lại với kích thích lành tính như thể nó là kích thích nguy hiểm, phát ra tín hiệu rất mạnh- ngay cả khi không bị sốc.

Kandel, làm việc với Tom Carew, một nhà tâm lý học sinh lý, tiếp theo cho thấy những con ốc sên có thể phát triển cả những ký ức ngắn hạn và ký ức dài hạn. Trong một thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã huấn luyện một con ốc sên rút lại mang của nó sau khi họ chạm vào nó 10 lần. Những thay đổi trong tế bào thần kinh vẫn duy trì trong vài phút—tương đương với trí nhớ ngắn hạn. Khi họ chạm vào mang mười lần, trong bốn buổi huấn luyện khác nhau, cách nhau vài giờ đến một ngày, sự thay đổi của các tế bào thần kinh kéo dài chừng ba tuần. Con vật đã phát triển những ký ức dài hạn nguyên thủy.

Kandel đã làm việc với đồng nghiệp của mình, nhà sinh vật học phân tử James Schwartz và các nhà di truyền học để hiểu rõ hơn về các phân tử riêng lẻ có liên quan đến việc hình thành ký ức dài hạn ở ốc sên. Họ đã chỉ ra rằng ở những con ốc, để những ký ức ngắn hạn trở thành dài hạnmột loại protein mới phải được tạo ra trong tế bào. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng một trí nhớ ngắn hạn sẽ trở thành dài hạn khi một chất hóa học trong tế bào thần kinh, được gọi là protein kinase A, di chuyển từ cơ thể của tế bào thần kinh vào nhân của nó, nơi lưu trữ gen. Protein bật một gen để tạo ra 1 protein làm thay đổi cấu trúc của đầu mút thần kinh, để nó phát triển các kết nối mới giữa các tế bào thần kinh. Sau đó, Kandel, Carew và các đồng nghiệp Mary Chen và Craig Bailey đã chỉ ra rằng khi một tế bào thần kinh duy nhất phát triển trí nhớ dài hạn cho sự nhạy cảm, nó có thể đi từ 1.300 đến 2.700 kết nối synap, một lượng thay đổi khả biến thần kinh đáng kinh ngạc.

Quá trình tương tự cũng xảy ra ở con người. Khi chúng ta học, chúng ta làm thay đổi những gen nào đó trong tế bào thần kinh của chúng ta được “biểu hiện” hoặc được bật lên.

Gen của chúng ta có hai chức năng. Đầu tiên, “chức năng khuôn mẫu”, cho phép các gen của chúng ta nhân bản, tạo ra các bản sao của chính chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chức năng khuôn mẫu nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.

Thứ hai là “chức năng sao chép”. Mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta chứa tất cả các gen của chúng ta, nhưng không phải tất cả các gen đó đều được bật hoặc biểu hiện. Khi một gen được bật, nó tạo ra một loại protein mới làm thay đổi cấu trúc và chức năng của tế bào. Đây được gọi là chức năng sao chép vì khi gen được bật, thông tin về cách tạo ra các protein này được “sao chép” hoặc đọc từ gen cá nhân. Chức năng sao chép này bị ảnh hưởng bởi những điều mà chúng ta nghĩ và làm.

Hầu hết mọi người cho rằng gen của chúng ta định hình chúng ta – hành vi và giải phẫu não của ta. Nhưng nghiên cứu của Kandel cho thấy khi chúng ta học hỏi thì tâm trí của ta cũng ảnh hưởng đến những gen nào đó trong các nơ-ron sẽ được sao chép. Do đó, chúng ta có thể định hướng các gen của mình, và đến lượt nó sẽ định hình giải phẫu vi mô cho bộ não của ta.

Kandel cho rằng khi trị liệu tâm lý làm thay đổi con người, “Người ta cho rằng nó làm được điều đó thông qua việc học, bằng cách tạo ra những thay đổi trong biểu hiện gen, làm thay đổi sức mạnh của các kết nối synap, và những thay đổi về cấu trúc sẽ làm thay đổi mô hình liên kết giải phẫu giữa các tế bào thần kinh của não bộ.” Tâm lý trị liệu hoạt động bằng cách đi sâu vào não bộ và tế bào thần kinh của nó và thay đổi cấu trúc của chúng bằng cách bật các gen phù hợp. Bác sĩ tâm thần Susan Vaughan cho rằng phương pháp trị liệu bằng lời nói có hiệu quả bằng cách “nói chuyện với các tế bào thần kinh,” và một nhà trị liệu tâm lý hoặc nhà phân tâm học giỏi là một “bác sĩ vi phẫu thuật của tâm trí” giúp bệnh nhân tạo ra những thay đổi cần thiết trong mạng lưới thần kinh của họ.

Những khám phá về học tập và trí nhớ ở cấp độ phân tử bắt nguồn từ chính quá khứ của Kandel.

Kandel sinh năm 1929 tại Vienna, một thành phố giàu có về văn hóa và trí tuệ. Nhưng Kandel là người Do Thái, và Áo tại thời điểm đó là một quốc gia kịch liệt chống Do Thái. Vào tháng 3 năm 1938, khi Hitler tiến quân vào Vienna, sáp nhập Áo vào Đức, ông ta được đám đông chào đón, tôn sùng, và tổng giám mục Công giáo Vienna đã ra lệnh cho tất cả các nhà thờ treo cờ Đức quốc xã. Ngày hôm sau, tất cả bạn cùng lớp của Kandel – ngoại trừ một cô gái, người Do Thái duy nhất khác trong lớp – đã ngừng nói chuyện với ông và bắt đầu bắt nạt ông ta.

Đến tháng Tư, tất cả trẻ em Do Thái đều bị đuổi khỏi trường. Vào ngày 9 tháng 11 năm 1928— Kristallnacht, “đêm thủy tinh” (ngụ ý là các cửa kính thủy tinh bị đập vỡ) khi Đức quốc xã phá hủy tất cả các giáo đường ở Reich Đức, bao gồm cả Áo – họ đã bắt cha của Kandel. Người Do Thái ở Áo bị đuổi ra khỏi nhà của họ, và 30 ngàn đàn ông Do Thái bị gửi đến các trại tập trung vào ngày hôm sau.

Kandel viết, “Hơn 60 năm trôi qua nhưng đến tận ngày nay tôi vẫn còn nhớ đến Kristallnacht, cứ như nó mới chỉ là ngày hôm qua. Nó rơi vào đúng 2 ngày sau sinh nhật lần thứ chín của tôi, khi đó tôi còn đang ngập chìm với các món đồ chơi  từ cửa hàng của cha tôi. Khi chúng tôi trở về căn hộ của mình một tuần sau khi bị đuổi, tất cả những thứ có giá trị đều bị mất, kể cả đồ chơi của tôi…

Ngay cả đối với một người được đào tạo về phân tâm học như tôi, có lẽ là vô ích khi cố gắng chỉ ra rằng những mối quan tâm và hành động phức tạp của cuộc sống về sau này của tôi do một vài trải nghiệm được lựa chọn của tuổi trẻ của tôi. Tuy nhiên, tôi không thể nào không tin rằng những trải nghiệm về năm cuối cùng của tôi ở Vienna giúp quyết định mối quan tâm sau này của tôi đối với tâm trí, về cách con người hành xử, tính khó đoán của động cơ và sự dai dẳng của ký ức… Tôi bị hành hạ, giống như những người khác, trước những sự kiện gây ra sang chấn của thời thơ ấu của tôi bị ghim chặt như thế nào trong ký ức.”

Ông ta bị cuốn hút vào phân tâm học, vì ông tin rằng “cho đến nay nó vẫn là trường phái đưa ra quan điểm chặt chẽ, nhất quán, thú vị và đa sắc thái nhất về tâm trí con người” và, trong tất cả các trường phái tâm lý học, có sự hiểu biết toàn diện nhất về những mâu thuẫn, xung đột của hành vi con người, về cách mà những xã hội văn minh có thể đột ngột phóng thích “sự dã man tàn bạo ở quá nhiều người,” và về một đất nước tưởng chừng văn minh như Áo lại có thể trở nên “tách rời hoàn toàn.”

Phân tâm học (hay “phân tích”) là một phương pháp điều trị giúp những người đang gặp rắc rối không chỉ bởi các triệu chứng mà còn bởi các khía cạnh trong tính cách của họ. Những vấn đề này xảy ra khi chúng ta có những xung đột nội tâm mạnh mẽ mà trong đó, như Kandel nói, những phần trong bản thân ta trở nên “tách rời” hoàn toàn hoặc cắt đứt với phần còn lại của chúng ta.

Trong khi sự nghiệp của Kandel đưa ông ta từ phòng khám đến phòng thí nghiệm khoa học thần kinh, thì Sigmund Freud bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một nhà thần kinh học trong phòng thí nghiệm, nhưng vì ông quá nghèo nên không thể tiếp tục hành nghề, ông đã đi theo hướng ngược lại và trở thành một nhà thần kinh học trong thực hành tư nhân, để có được thu nhập đủ nuôi sống gia đình. Một trong những nỗ lực đầu tiên của ông là hợp nhất những gì ông đã học được về bộ não với tư cách là một nhà thần kinh học với những gì ông đang học hỏi về tâm trí trong khi điều trị cho bệnh nhân. Là một nhà thần kinh học, Freud sớm trở nên bất mãn với chủ nghĩa cục bộ thời bấy giờ– nó dựa trên nghiên cứu của Broca và những người khác, và nhận ra rằng quan điểm về bộ não được lập trình không đủ để giải thích về những hoạt động tinh thần phức tạp, do văn hóa đòi hỏi, chẳng hạn như đọc và viết lại có thể làm được. Năm 1891, ông đã viết một cuốn sách có tựa đề On Aphasia, trong đó cho thấy những sai sót trong các bằng chứng hiện có về “một chức năng, một vị trí,” và cho rằng các hiện tượng tinh thần phức tạp như đọc và viết không bị giới hạn ở những vùng vỏ não riêng biệt, và quan điểm của những người theo chủ nghĩa cục bộ cho rằng có một “trung tâm” não bộ dành cho khả năng biết đọc-biết viết là bất hợp lý, vì khả năng đọc viết không phải là điều bẩm sinh. Thay vào đó, bộ não trong quá trình sống của mỗi cá nhân chúng ta phải linh động tổ chức lại bản thân nó để thực hiện các chức năng do văn hóa đòi hỏi.

Năm 1895 Freud đã hoàn thành “Dự án Tâm lý học Khoa học”, một trong những mô hình khoa học thần kinh toàn diện đầu tiên để hợp nhất bộ não và tâm trí, vẫn còn được nhiều người ngưỡng mộ bởi sự công phu của nó. Ở đây Freud nói đến “synapse,” trước Sir Charles Sherrington vài năm. Trong “Dự án” Freud thậm chí còn mô tả về cách synapses, mà ông gọi là “các rào cản liên lạc,” có thể thay đổi bởi những gì chúng ta học được, dự đoán về nghiên cứu của Kandel. Ông cũng bắt đầu đề xuất về ý tưởng khả biến thần kinh.

Khái niệm tính dẻo (khả biến thần kinh) đầu tiên mà Freud phát triển là định luật cho rằng những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau thì sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau, thường được gọi là định luật Hebb, mặc dù Freud đã đề xuất nó vào năm 1888, trước Hebb sáu mươi năm. Freud tuyên bố rằng khi hai nơ-ron đồng loạt bắn điện, việc bắn điện này tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết giữa chúng. Freud nhấn mạnh rằng thứ liên kết các tế bào thần kinh chính là chúng cùng bắn điện cùng một lúc, và ông gọi hiện tượng này là quy luật liên kết bằng tính đồng thời. Quy Luật kết hợp giải thích tầm quan trọng của ý tưởng “liên tưởng tự do” của Freud, mà trong đó các bệnh nhân tham gia trị liệu phân tâm học nằm trên chiếc trường kỷ và “Liên tưởng-tự do,” hoặc nói ra bất cứ thứ gì xuất hiện trong tâm trí họ, bất kể chúng có vẻ khó chịu , không thoải mái hoặc vặt vãnh thế nào. Nhà phân tích ngồi phía sau bệnh nhân, khuất tầm nhìn của bệnh nhân và thường nói rất ít. Freud nhận thấy rằng nếu ông ta không can thiệp, nhiều cảm xúc khó chịu và các kết nối thú vị sẽ xuất hiện trong liên tưởng của bệnh nhân — những ý nghĩ và cảm xúc mà bình thường bệnh nhân muốn xua đuổi.

Liên tưởng tự do dựa trên nhận định rằng tất cả các liên tưởng tinh thần của chúng ta, ngay cả những liên tưởng có vẻ như xuất hiện “ngẫu nhiên” chẳng có ý nghĩa gì, là những biểu hiện của các liên kết được hình thành trong mạng lưới trí nhớ của chúng ta. Quy luật liên tưởng bằng tính đồng thời của ông ngụ ý những mối liên kết thay đổi trong mạng lưới thần kinh với những thay đổi trong mạng lưới trí nhớ của chúng ta, vì thế các nơ-ron bắn điện cùng nhau nhiều năm trước khi kết nối với nhau, và những liên kết gốc (ban đầu) này thường vẫn còn tồn tại và biểu lộ trong những liên tưởng tự do của bệnh nhân.

Ý tưởng thứ hai về khả biến thần kinh của Freud đó là về giai đoạn tâm lý quan trọng và ý tưởng liên quan đến tính dẻo (khả biến thần kinh) về tình dục. Như ta đã thấy ở chương 4, Thị hiếu học được và Tình yêu,” Freud là người đầu tiên cho rằng tính dục ở con người và khả năng yêu thương có những thời kỳ quan trọng trong thời kỳ thơ ấu mà ông gọi là “những giai đoạn tổ chức.” Những gì xảy ra trong suốt giai đoạn quan trọng này có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng yêu thương và quan hệ của chúng ta sau này trong cuộc sống. Nếu có điều gì đó đi sai hướng, dù sau này ta có thể tạo ra những thay đổi trong cuộc sống, nhưng ta sẽ khó mà đạt được sự thay đổi về tính dẻo (khả biến thần kinh) sau khi giai đoạn quan trọng đã đóng.

Ý tưởng thứ ba của Freud đó là quan điểm về tính dẻo (khả biến thần kinh) về trí nhớ. Ý tưởng Freud được kế thừa từ các giáo viên của ông đó là các sự kiện mà chúng ta trải nghiệm có thể để lại dấu vết ký ức vĩnh viễn trong tâm trí chúng ta. Nhưng khi ông bắt đầu làm việc với bệnh nhân, ông quan sát thấy các ký ức không phải được ghi lại chỉ duy nhất một lần, hoặc “khắc ghi” mãi mãi không thay đổi. Mà chúng có thể được thay đổi bởi các sự kiện tiếp theo và được sao chép lại. Freud quan sát thấy rằng các sự kiện có thể thay đổi ý nghĩa đối với bệnh nhân nhiều năm sau khi chúng đã xảy ra, và sau đó các bệnh nhân ấy đã thay đổi những ký ức của họ về các sự kiện đó. Những đứa trẻ từng bị lạm dụng tình dục khi còn rất bé và không thể hiểu được người khác đã gây ra chuyện gì với chúng thì không phải lúc nào cũng nổi giận vào thời điểm đó, và những ký ức ban đầu của chúng không phải lúc nào cũng tiêu cực. Nhưng khi họ trưởng thành về mặt tình dục và nhìn nhận lại vụ việc và trao cho nó ý nghĩa mới, và kí ức của họ về chuyện lạm dụng tình dục đã thay đổi.

Vào năm 1896, Freud đã viết rằng thỉnh thoảng, những dấu vết ký ức phải chịu sự sắp xếp lại cho phù hợp với những hoàn cảnh mới.-và được sao chếp lại Do đó, điều mới mẻ về lý thuyết của tôi đó là luận điểm cho rằng ký ức không chỉ hiện diện một lần mà là nhiều lần.” Các ký ức liên tục được sửa lại, “trong mọi phương diện tương tự như quá trình mà một quốc gia xây dựng nên những huyền thoại về lịch sử ban đầu của nó.” Freud cho rằng, để thay đổi, các ký ức phải được nhận thức và trở thành trung tâm chú ý của chúng ta, như các nhà khoa học thần kinh đã chỉ ra. Thật không may, đối với trường hợp của Anh L, những ký ức sang chấn tâm lý của các sự kiện đã xảy ra thời thơ ấu không dễ dàng tiếp cận được đến ý thức, bởi thế mà chúng không thay đổi.

Ý tưởng về khả biến thần kinh thứ tư của Freud giúp lý giải làm thế nào ta có thể khiến những ký ức sang chấn trong vô thức trồi lên bề mặt ý thức và biên tập lại chúng. Ông quan sát thấy Trong sự thiếu hụt cảm giác nhẹ được tạo ra bởi việc ông ngồi khuất tầm nhìn của bệnh nhân, và chỉ bình luận khi ông hiểu rõ vấn đề của họ, bệnh nhân bắt đầu xem ông như nhân vật quan trọng trong quá khứ của họ, thường là cha mẹ của họ, đặc biệt là trong thời kỳ tâm lý quan trọng của họ. Cứ như thể các bệnh nhân đang sống lại những ký ức trong quá khứ mà không nhận ra điều đó. Freud gọi hiện tượng vô thức này là “sự chuyển dịch” vì bệnh nhân đang chuyển những kịch bản và cách nhìn nhận từ quá khứ sang hiện tại. Họ đã “làm sống lại” chúng thay vì “nhớ lại” chúng.

Một nhà phân tâm đứng khuất khỏi tầm nhìn và nói rất ít, trở thành một cái màn hình trống mà bệnh nhân bắt đầu phóng chiếu sự chuyển dịch của anh ta. Freud phát hiện thấy những bệnh nhân này không chỉ phóng chiếu những “chuyển dịch” này sang ông ta mà còn sang cả những người khác trong cuộc sống của họ, và họ không ý thức được mình đang làm điều này, và cách nhìn nhận méo mó về người khác thường khiến họ vướng phải rắc rối. Giúp bệnh nhân hiểu được sự chuyển dịch của họ cho phép họ cải thiện các mối quan hệ của họ. Điều quan trọng nhất là, Freud phát hiện ra sự chuyển dịch của những cảnh sang chấn tâm lý đầu đời có thể thay đổi được nếu ông ta chỉ cho bệnh nhân thấy điều gì đang diễn ra khi sự chuyển dịch bị kích hoạt và bệnh nhân chú ý kỹ đến chúng. Do đó các mạng nơ-ron thần kinh bên dưới, và các ký ức liên tưởng, có thể được ghi lại và được thay đổi.

Anh L. mất mẹ lúc 26 tháng tuổi. Độ tuổi mà sự thay đổi tính dẻo của đứa trẻ đạt mức đỉnh điểm; các hệ thống não mới đang hình thành và tăng cường các kết nối thần kinh, và các bản đồ não đang phân hóa và hoàn thiện cấu trúc cơ bản của chúng với sự trợ giúp của kích thích và tương tác với thế giới. Bán cầu não phải thì vừa mới hoàn thành sự tăng trưởng bứt phá, và bán cầu não trái đang bắt đầu bứt phá.

Bán cầu não phải thường xử lý giao tiếp phi ngôn ngữ; nó cho phép chúng ta nhận diện khuôn mặt và đọc được các biểu cảm trên khuôn mặt, và nó kết nối chúng ta với người khác. Do đó, nó xử lý các tín hiệu thị giác phi ngôn ngữ giữa người mẹ và đứa bé. Nó cũng xử lý yếu tố cảm xúc ẩn chứa trong lời nói, hoặc giọng nói, mà qua đó chúng ta truyền đạt cảm xúc. Trong giai đoạn tăng trưởng bứt phá của bán cầu não phải từ khi sinh ra đến năm 2 tuổi, các chức năng này trải qua những giai đoạn quan trọng.

Bán cầu não trái thường xử lý các yếu tố ngôn ngữ của lời nói, trái ngược với các yếu tố cảm xúc của lời nói, và phân tích vấn đề bằng cách xử lý ý thức. Em bé có bán cầu não phải lớn hơn, cho đến cuối năm thứ hai, và bởi vì bán cầu não trái mới chỉ bắt đầu phát triển, cho nên bán cầu não phải của chúng ta thống trị não bộ trong ba năm đầu đời.

Đứa bé 26 tháng tuổi là một sinh vật cảm xúc phức tạp thiên về “não phải” nhưng không thể nói về những trải nghiệm của chúng, vì đó là một chức năng của não trái. Quét não cho thấy trong hai năm đầu đời, người mẹ chủ yếu giao tiếp phi ngôn ngữ để chạm được đến bán cầu não phải của đứa con cô ấy.

Một giai đoạn quan trọng đặc biệt kéo dài từ khoảng 10-12 tháng đến 16-18 tháng, trong đó một khu vực quan trọng của thùy trán phải đang phát triển và định hình các mạch não sẽ cho phép trẻ sơ sinh duy trì những mối gắn bó của con người và điều chỉnh cảm xúc. Khu vực trưởng thành này, phần não phía sau mắt phải của chúng ta, được gọi là hệ thống trán ổ mắt bên phải. (Hệ thống vỏ não trán ổ mắt có khu vực trung tâm của nó nằm ở vỏ não trán ổ mắt, đã được thảo luận trong chương 6, nhưng “hệ thống” bao gồm các liên kết đến hệ viền limbic, xử lý cảm xúc.) Hệ thống này cho phép chúng ta đọc được những biểu cảm cảm trên khuôn mặt người, và do đó cũng là những cảm xúc của họ, và cũng hiểu và kiểm soát được những cảm xúc của chúng ta. Ông L khi mới 26 tháng tuổi đã hoàn thành sự phát triển vùng trán ổ mắt nhưng sẽ không có cơ hội củng cố nó.

Một người mẹ ở bên con trong giai đoạn quan trọng để phát triển cảm xúc và sự gắn bó, liên tục dạy cho trẻ cảm xúc là gì bằng cách sử dụng lời nói đầy cảm xúc và những cử chỉ không lời. Khi bà ấy nhìn con mình nuốt nhiều không khí cùng với sữa khi bú, bà ấy có thể nói: “Đây, đây, cục cưng, trông con khó chịu quá”, đừng sợ, bạn bị đau bụng vì bạn bú quá nhanh. Để Mẹ vỗ vỗ cho bạn ợ, và ôm ấp bạn khiến bạn cảm thấy mọi chuyện đều ổn. Bà ấy đang nói cho đứa trẻ biết tên của cảm xúc (sợ hãi), rằng nó có một yếu tố kích hoạt (cô bé bú quá nhanh), rằng cảm xúc được truyền đạt bằng biểu cảm trên khuôn mặt (“trông con khó chịu quá”), rằng nó có liên quan đến cảm giác cơ thể (đau quặn bụng) và tìm đến người khác để được an ủi thường sẽ có ích (“Để mẹ vỗ vỗ cho bạn ợ và ôm bạn”). Người mẹ đó đã cho đứa con một khóa huấn luyện về nhiều khía cạnh của cảm xúc được truyền tải không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cảm xúc yêu thương trong giọng nói của bà và sự trấn an từ cử chỉ điệu bộ của bà.

Để đứa trẻ hiểu được và điều chỉnh được cảm xúc của chúng và và biết kết nối xã hội, chúng cần được trải nghiệm kiểu tương tác này hàng trăm lần trong thời kỳ quan trọng và sau đó củng cố nó sau này trong cuộc sống.

Anh L. mất mẹ chỉ vài tháng sau khi hoàn thành việc phát triển hệ thống trán ổ mắt của mình. Vì vậy nó phụ thuộc vào người khác, mà bản thân họ cũng đang buồn khổ và do đó kém nhạy cảm, ít quan tâm đến anh bằng mẹ, để giúp anh ta sử dụng và thực hành hệ thống trán ổ mắt của mình, nếu không nó sẽ bắt đầu bị suy yếu. Những trẻ mồ côi mẹ lúc bé gần như luôn luôn bị đập bởi hai trận đòn tàn khốc: cái chết cướp mất mẹ của cậu ta và bệnh trầm cảm thì cướp đi người bố của cậu. Nếu những người khác không thể giúp anh ta xoa dịu bản thân và điều chỉnh cảm xúc của mình như cách mẹ anh ta đã làm, thì anh sẽ học cách “tự động-điều chỉnh” bằng cách dập tắt cảm xúc của mình. Khi Anh L đi điều trị tâm lý, anh vẫn có xu hướng dập tắt cảm xúc này và gặp khó khăn trong việc duy trì những mối gắn bó.

Rất lâu trước khi có công nghệ quét hình ảnh của vỏ não trán ổ mắt, các nhà phân tâm học đã nhận thấy những đặc điểm của những đứa trẻ thiếu thốn tình mẹ trong giai đoạn quan trọng đầu đời. Trong Thế chiến II, Rene Spitz đã nghiên cứu những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi chính mẹ của chúng trong tù, so với những trẻ được nuôi ở một trại trẻ mồ côi, nơi một y tá chịu trách nhiệm chăm sóc bảy đứa trẻ. Những đứa trẻ ở trại mồ côi đã ngừng phát triển trí tuệ, không thể kiểm soát được cảm xúc của chúng và làm những động tác tay kỳ quặc. Chúng cũng bước vào trạng thái “tắt nguồn” và vô cảm với thế giới, không phản ứng với những người cố gắng trấn an chúng. Trong các bức ảnh, những đứa trẻ này có một cái nhìn xa xăm, ám ảnh trong mắt chúng. Trạng thái tắt nguồn hay “tê liệt” xảy ra khi trẻ từ bỏ mọi hy vọng tìm lại được người cha người mẹ đã mất của mình. Nhưng làm sao Anh L , người từng trải qua trạng thái tương tự, lại có thể ghi nhận được những trải nghiệm đầu đời đó trong trí nhớ của anh?

Các nhà thần kinh học nhận ra có hai hệ thống trí nhớ chính. Cả hai đều thay đổi về tính dẻo (thần kinh) trong tâm lý trị liệu.

Hệ thống trí nhớ được phát triển tốt ở đứa trẻ 26 tháng tuổi được gọi là trí nhớ “ẩn tàng” hay trí nhớ “tiến trình”. Những thuật ngữ này thường được Kandel sử dụng thay thế cho nhau. Trí nhớ ẩn tàng hoạt động khi chúng ta học một tiến trình hoặc một nhóm các hành động tự động, diễn ra bên ngoài sự tập trung chú ý của chúng ta, mà nhìn chung là không yêu cầu về từ ngữ. Những tương tác phi ngôn ngữ của chúng ta với mọi người và nhiều ký ức cảm xúc của chúng ta là một phần của hệ thống trí nhớ tiến trình. Kandel nói, “Trong 2-3 năm đầu đời, khi tương tác của trẻ sơ sinh với mẹ đặc biệt quan trọng, trẻ sơ sinh chủ yếu dựa vào hệ thống trí nhớ tiến trình của nó.” Những ký ức tiến trình nhìn chung là thuộc về vô thức. Đạp xe đạp phụ thuộc vào trí nhớ tiến trình, và hầu hết mọi người đạp xe một cách dễ dàng sẽ cảm thấy lúng túng, khó khăn để giải thích chính xác cách họ thực hiện việc đó. Hệ thống trí nhớ tiến trình xác nhận rằng chúng ta có những ký ức vô thức, như đề xuất của Freud.

Hình thức khác của trí nhớ được gọi là trí nhớ “rõ ràng” hay trí nhớ “quy nạp”, mới bắt đầu phát triển ở độ tuổi 26 tháng. Trí nhớ rõ ràng hồi tưởng lại những sự kiện và tình tiết cụ thể. Đó là trí nhớ chúng ta sử dụng khi ta mô tả và làm rõ những gì ta đã làm vào cuối tuần, và với ai, và trong bao lâu. Nó giúp chúng ta sắp xếp ký ức của mình theo thời gian và địa điểm. Trí nhớ rõ ràng được hỗ trợ bởi ngôn ngữ và trở nên quan trọng hơn một khi trẻ có thể nói chuyện.

Những người đã bị sang chấn trong 3 năm đầu đời của họ có thể được cho là nếu có thì cũng chỉ có rất ít ký ức rõ ràng về sang chấn của họ. (Anh L. nói rằng anh không có một ký ức nào trong 4 năm đầu đời của mình.) Nhưng những ký ức tiến trình/ẩn tàng về những chấn thương này vẫn còn đó và thường được gợi lên hoặc kích hoạt khi con người gặp phải những tình huống giống với sang chấn tâm lý. Những ký ức như vậy thường bỗng dưng ở đâu tìm đến ta và dường như không được phân loại theo thời gian, địa điểm và bối cảnh, giống như đa số ký ức rõ ràng. Những ký ức tiến trình về tương tác tình cảm thường lặp đi lặp lại trong cơ chế chuyển dịch, hoặc trong cuộc sống.

Ký ức rõ ràng được phát hiện thông qua quan sát một trường hợp về trí nhớ nổi tiếng nhất trong khoa học thần kinh – một thanh niên tên H.M., bị động kinh nặng. Để điều trị, các bác sĩ đã cắt một phần não của anh có kích thước bằng ngón tay cái của con người, hồi hải mã. (Trên thực tế có tới hai “hồi hải mã,” ở mỗi bên bán cầu não, và cả hai đều bị cắt bỏ.). Sau khi phẫu thuật H.M. lúc đầu trông có vẻ bình thường. Anh ấy nhận ra gia đình và có thể giao tiếp trò chuyện. Nhưng chẳng bao lâu sau khi làm phẫu thuật, anh ta không thể học thêm bất kì sự kiện mới nào. Khi các bác sĩ đến thăm và trò chuyện với anh, và rời đi, rồi sau đó quay lại, anh ấy không có ký ức gì về cuộc gặp trước đó. Chúng ta học được từ trường hợp của H.M, rằng hồi hải mã biến các ký ức rõ ràng, trong ngắn hạn của chúng ta thành ký ức rõ ràng, dài hạn, về con người, sự việc và nơi chốn—những ký ức mà chúng ta có thể truy cập được (về ý thức). 

Phân tâm học giúp bệnh nhân đưa những ký ức tiến trình và hành động vô thức của họ thành từ ngữ/lời nói và đặt vào bối cảnh, để họ có thể hiểu rõ hơn về chúng. Trong quá trình họ ghi lại những ký ức tiến trình này, để họ trở nên ý thức về các ký ức tiến trình, đôi lúc, lần đầu tiên trong đời, và bệnh nhân không cần phải “sống lại” hoặc “tái diễn lại” chúng, đặc biệt nếu chúng là sang chấn tâm lý.

Anh L. đã nhanh chóng làm trị liệu phân tâm học và làm liên tưởng tự do và bắt đầu phát hiện thấy, giống như nhiều bệnh nhân khác, những giấc mơ từ đêm hôm trước thường xuất hiện trong đầu. Chẳng mấy chốc, anh bắt đầu thông báo về giấc mơ cứ tái diễn, trở đi trở lại của mình về việc tìm kiếm một đồ vật không xác định, nhưng bổ sung thêm nhiều chi tiết mới— “đồ vật đó” có thể là một con người:

Vật thể bị mất có thể là một phần của tôi, có thể không, có thể là đồ chơi, vật sở hữu hoặc một người. Tôi nhất định phải có nó. Tôi sẽ nhận ra nó khi tôi tìm thấy nó. Nhưng đôi lúc tôi cũng không chắc chắn liệu nó có tồn tại hay không, và do đó tôi không chắc về thứ bị mất.

Tôi chỉ cho anh thấy một kiểu mẫu đang xuất hiện. Anh thông báo không chỉ có những giấc mơ đó mà còn cả những cơn trầm cảm và cảm giác tê liệt của anh sau những kỳ nghỉ cũng làm gián đoạn công việc của chúng tôi. Lúc đầu, anh ta không tin tôi, nhưng những cơn trầm cảm và giấc mơ mất mát – có thể là về một người— vẫn tiếp tục xuất hiện vào những lúc nghỉ ngơi. Sau đó anh ấy nhớ lại rằng sự gián đoạn trong công việc cũng dẫn đến những cơn trầm cảm bí ẩn.

Những ý nghĩ trong giấc mơ tìm kiếm tuyệt vọng của anh được liên kết, trong trí nhớ của anh, với sự chăm sóc bị gián đoạn, ngắt quãng, và các tế bào thần kinh mã hóa những ký ức này có lẽ được kết nối với nhau trong quá trình phát triển đầu đời của anh ta. Nhưng anh không còn ý thức được mối liên kết quá khứ này. “Đồ chơi bị mất” trong giấc mơ là manh mối cho thấy nỗi khổ hiện tại của anh ta được tô màu bởi những mất mát thời thơ ấu. Nhưng giấc mơ ngụ ý rằng sự mất mát đang xảy ra ngay bây giờ. Quá khứ và hiện tại đã được trộn lẫn với nhau, và một sự chuyển dịch đã được kích hoạt. Và ngay lúc đó, tôi, với tư cách là một nhà phân tâm, đã làm việc mà một bà mẹ nhạy cảm vẫn hay làm, khi bà ấy phát triển hệ thống trán ổ mắt của anh, bằng cách chỉ ra những cảm xúc cơ bản — giúp anh gọi tên những cảm xúc của mình, cái gì kích hoạt chúng, và chúng ảnh hưởng như thế nào đến trạng thái thể chất và tâm lý của anh. Chẳng mấy chốc, anh ấy đã có khả năng phát hiện được yếu tố kích hoạt và các cảm xúc của mình.

Những sự gián đoạn gợi lên ba kiểu ký ức tiến trình khác nhau: một trạng thái lo lắng, trong đó anh ta đang mòn mỏi chờ đợi và tìm kiếm người mẹ và gia đình đã mất của mình; một trạng thái chán nản, trong đó anh ta tuyệt vọng tìm thấy điều mà anh ta đang tìm; và một trạng thái tê liệt, khi anh dập tắt và thời gian như đứng lại, có lẽ bởi vì anh cảm thấy hoàn toàn bị choáng ngợp.

Bằng cách nói về những trải nghiệm ấy, lần đầu tiên trong đời trưởng thành của mình, anh có thể kết nối cuộc tìm kiếm tuyệt vọng của mình với yếu tố kích hoạt thực sự của nó, sự mất mát của một người, và nhận ra tâm trí và bộ não của anh vẫn hợp nhất quan điểm về sự ly biệt với ý tưởng về cái chết của mẹ anh. Khi tạo ra những kết nối này, và cũng nhận ra rằng anh không còn là một đứa trẻ bất lực, anh cảm thấy đỡ choáng ngợp.

Theo thuật ngữ khả biến thần kinh, kích hoạt và chú ý kỹ đến mối liên kết giữa những lần xa cách hằng ngày và phản ứng thảm họa của anh trước chúng cho phép anh ngắt mối liên kết và thay đổi mô hình.

Khi Anh L. trở nên ý thức rằng anh ta đang phản ứng trước những lần xa cách (trong thời gian ngắn) của chúng tôi như thể chúng là những mất mát lớn, anh có một giấc mơ như sau:

Tôi cùng với một người đàn ông đang di chuyển một chiếc hộp bằng gỗ lớn có đựng một quả cân bên trong.

Khi anh liên tưởng tự do đến giấc mơ, nhiều ý nghĩ xuất hiện trong tâm trí. Chiếc hộp khiến anh nhớ đến hộp đồ chơi của mình nhưng cũng là một cỗ quan tài. Giấc mơ dường như đang nói bằng những hình ảnh mang tính biểu tượng rằng anh ta đang mang theo gánh nặng của cái chết của mẹ mình. Sau đó, người đàn ông trong giấc mơ nói: “Hãy nhìn vào cái giá bạn đã trả cho chiếc hộp này”. Tôi bắt đầu bị bóc trần, và chân tôi đang trong tình trạng thê thảm, đầy sẹo, đóng đầy vảy, và được chữa lành bằng một cục u là một phần đã chết của tôi. Tôi không biết cái giá phải trả sẽ đắt như thế này

Những lời như “Tôi không biết cái giá (phải trả) sẽ đắt như thế này” được liên kết trong tâm trí anh cùng với việc anh càng ngày càng nhận ra mình vẫn bị ảnh hưởng bởi cái chết của mẹ. Anh từng bị thương và vẫn còn “vết sẹo”. Ngay sau khi nói lên suy nghĩ đó, anh dần chìm vào im lặng và có được một trong những sự giác ngộ lớn của cuộc đời anh. “Bất cứ khi nào tôi ở bên một người phụ nữ,” anh nói, “Tôi liền nghĩ rằng cô ấy không phải người dành cho mình, và tôi tưởng tượng rằng đâu đó ngoài kia sẽ có một vài người phụ nữ lý tưởng khác, đang đợi tôi.” Sau đấy, nghe có vẻ sốc, anh nói, “Tôi chợt nhận ra rằng những người phụ nữ khác đó dường như là một thứ cảm giác mơ hồ về mẹ mà tôi có khi còn bé, và bà ấy là người mà tôi phải chung thủy, nhưng cũng là người mà tôi không bao giờ tìm thấy. Người phụ nữ mà tôi đang ở bên trở thành mẹ nuôi của tôi, và yêu cô ấy tức là đang phản bội lại người mẹ ruột của tôi.”

Anh ta đột nhiên nhận ra thôi thúc lừa dối (vợ) xảy ra khi anh gần gũi hơn với vợ, đang đe dọa sự ràng buộc giấu kín của anh với mẹ anh. Sự không chung thủy của anh ta luôn luôn phục vụ cho một sự chung thủy “cao hơn” trong vô thức. Tiết lộ này cũng là dấu vết đầu tiên cho thấy anh đã ghi nhận một vài kiểu gắn bó với mẹ anh.

Khi tôi tiếp tục tự hỏi liệu anh ta có thể coi tôi với tư cách là người đàn ông (trong giấc mơ của anh ta), người nói rằng anh ta cảm thấy bị tổn thương như thế nào, lần đầu tiên trong quãng đời trưởng thành của anh, Anh L đã bật khóc.

Anh L. không khá hơn ngay lập tức. Trước tiên anh ấy phải trải qua các chu kỳ tách biệt, những giấc mơ, trầm cảm và bừng ngộ – sự lặp đi lặp lại, hay “nỗ lực” là cần thiết để thay đổi khả biến thần kinh về lâu dài. Những cách liên kết mới phải được học, kết nối các nơ-ron mới lại với nhau, và những cách phản ứng cũ phải bị gạt bỏ, quên đi để làm suy yếu các liên kết thần kinh. Vì Anh L đã liên kết các ý tưởng về sự biệt ly và cái chết, nên chúng đã được kết nối với nhau trong mạng lưới thần kinh của anh ta. Bây giờ anh ta đã nhận ra mối liên kết của mình thì anh ta có thể gỡ bỏ nó.

Tất cả chúng ta đều có cơ chế phòng vệ, các kiểu phản ứng, nhằm che giấu những tư tưởng, cảm xúc và ký ức đau đớn không thể chịu đựng nổi, không cho chúng trồi lên bề mặt ý thức. Một trong những phòng vệ này được gọi là sự phân ly (dissociation) giữ cho các ý tưởng hoặc cảm giác gây đe dọa tách biệt với phần còn lại của tâm lý. Trong phân tâm, Anh L bắt đầu có cơ hội tái trải nghiệm những ký ức tự thuật đau đớn về việc tìm kiếm mẹ bị đóng băng bởi thời gian và phân lý/tách ra khỏi những ký ức có ý thức của anh ta. Mỗi lần anh làm vậy, anh cảm thấy toàn vẹn hơn khi các nhóm nơ-ron mã hóa các ký ức của anh từng bị mất kết nối thì giờ đây được kết nối lại.

Các nhà phân tâm học kể từ Freud đã lưu ý rằng một số bệnh nhân trong khi làm phân tâm đã phát triển những cảm xúc mạnh mẽ đối với nhà phân tâm. Điều này đã xảy ra trong trường hợp của Anh L.   Một cảm giác thân thiết tích cực và ấm áp được phát triển giữa chúng tôi. Freud cho rằng những cảm xúc tích cực, mạnh mẽ được chuyển dịch đó đã trở thành một trong nhiều động cơ thúc đẩy việc chữa lành. Theo thuật ngữ khoa học thần kinh, điều này có thể giúp ích vì cảm xúc và mô hình chúng ta biểu lộ trong các mối quan hệ là một phần của hệ thống trí nhớ tiến trình. Khi các mô hình như vậy được kích hoạt trong trị liệu, nó cho bệnh nhân cơ hội nhìn vào chúng và thay đổi chúng, như chúng ta đã thấy trong chương 4, “Những thị hiếu do học được và tình yêu,” những mối quan hệ, gắn bó tích cực dường như tạo điều kiện thuận lợi cho sự thay đổi về tính dẻo thần kinh bằng cách kích hoạt sự gỡ bỏ và làm tan biến những mạng thần kinh đang tồn tại, vì vậy bệnh nhân có thể thay đổi ý định hiện có của mình.

“Không còn nghi ngờ gì nữa”, Kandel viết, “trị liệu tâm lý có thể dẫn đến những thay đổi có thể tìm thấy trong não.” Quét não gần đây được thực hiện trước và sau khi trị liệu tâm lý cho thấy cả não bộ tự tổ chức lại bản thân nó (về tính dẻo) trong trị liệu và việc trị liệu càng thành công thì sự thay đổi càng lớn. Khi bệnh nhân sống lại những sang chấn tâm lý của họ và có những hồi ức và cảm xúc không thể kiểm soát, dòng máu chảy đến thùy trước trán và thùy trán– giúp điều chỉnh hành vi của chúng ta–bị suy giảm, cho thấy những khu vực này ít hoạt động, kém tích cựcTheo nhà phân tâm học-thần kinh Mark Solms và nhà khoa học thần kinh Oliver Turnbull, Mục đích của phương pháp trị liệu bằng cách trò chuyện…từ quan điểm của sinh học thần kinh  [là] để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của thùy trước trán.” 

Một nghiên cứu trên bệnh nhân trầm cảm được điều trị bằng liệu pháp tâm lý liên cá nhân — một liệu pháp ngắn hạn, một phần dựa trên nghiên cứu lý thuyết của hai nhà phân tâm học, John Bowlby và Harry Stack Sullivan— cho thấy hoạt động của não trước trán được bình thường hóa khi điều trị. (Hệ thống trán ổ mắt phải, rất quan trọng trong việc nhận biết và điều chỉnh cảm xúc và các mối quan hệ — một chức năng đã bị xáo trộn ở Anh L— là một phần của vỏ não trước trán.) Một nghiên cứu quét não bộ fMRI gần đây về bệnh nhân lo âu với rối loạn hoảng sợ cho thấy hệ viền limbic của họ có xu hướng bị kích hoạt một cách bất thường bởi kích thích đe dọa tiềm tàng, đã giảm sau khi trị liệu phân tâm học.

Khi Anh L. bắt đầu hiểu các triệu chứng sau-sang chấn tâm lý của mình, anh ta bắt đầu “điều chỉnh” cảm xúc của bản thân tốt hơn. Anh thông báo rằng bên ngoài phòng trị liệu phân tâm, anh đã có khả năng kiểm soát bản thân nhiều hơn. Trạng thái tê liệt bí ẩn của anh giảm đi. Khi anh có những cảm xúc đau đớn, anh không còn mượn rượu giải sầu như trước đây. Bây giờ Anh L bắt đầu bớt cảnh giác và ít phòng thủ hơn. Anh cảm thấy thoải mái hơn khi bộc lộ sự tức giận và cảm thấy gần gũi hơn với các con của anh. Anh ngày càng sử dụng các buổi trị liệu để đối mặt với nỗi đau của mình thay vì dập tắt nó. Bây giờ Anh L rơi vào những khoảng lặng kéo dài có một tác động sâu sắc đến anh. Vẻ mặt của anh cho thấy anh đang vô cùng đau đớn, đang cảm nhận một nỗi buồn khủng khiếp, mà anh không thể nói nên lời.

Bởi vì những cảm xúc của anh ấy về sự ra đi của người mẹ không được nói đến khi anh còn bé, và cả gia đình xử lý với nỗi đau bằng cách cứ tiếp tục sinh hoạt như bình thường, và vì anh ấy đã im lặng quá lâu, tôi đánh liều và thử diễn đạt bằng lời những cử chỉ phi ngôn ngữ của anh ấy. Tôi nói, “Như thể anh đang nói với tôi, có lẽ anh từng muốn nói với gia đình anh rằng, Mọi người có thấy không, sau mất mát khủng khiếp này, tôi phải trầm cảm ngay bây giờ?’“

Anh bật khóc lần thứ hai trong trị liệu phân tâm. Lúc đang khóc, anh bắt đầu lè lưỡi một cách bản năng và nhịp nhàng, làm anh trông giống một đứa bé bị tước khỏi bầu vú mẹ và đang thè lưỡi để tìm nó. Sau đó anh che mặt, đưa tay vào miệng như một đứa trẻ hai tuổi, và khóc nức nở. Anh nói, “Tôi muốn được an ủi vì những nỗi đau và mất mát của mình, nhưng đừng đến quá gần để an ủi tôi. Tôi muốn được ở một mình với nỗi đau của tôi. Anh không thể hiểu được đâu, vì ngay cả tôi cũng chẳng hiểu nổi. Đó là nỗi đau quá lớn.”

Nghe điều này, cả hai chúng tôi đều biết rằng anh ấy thường giữ lập trường “từ chối sự an ủi” và nó góp phần gây ra sự “cách biệt” trong tính cách của anh ấy. Anh trải qua một cơ chế phòng vệ từng tạo nên từ thời bé và điều đó giúp anh phong tỏa nỗi mất mát to lớn của mình. Sự phòng thủ đó, bằng cách lặp đi lặp lại hàng ngàn lần, đã được củng cố về mặt tính dẻo thần kinh. Đây là điểm rõ ràng nhất trong tính cách của anh ấy, sự cách biệt của anh ấy, vốn không bị quy định về mặt di truyền, mà đó là do học được, và bây giờ nó đang được gỡ bỏ.

Có thể việc Anh L. khóc lóc và thè lưỡi ra như một đứa bé trông thật khác thường, nhưng nó là trải nghiệm đầu tiên trong nhiều trải nghiệm “trẻ con” mà anh ấy sẽ có trên trường kỷ. Freud quan sát thấy các bệnh nhân từng bị sang chấn tâm lý hồi bé thì thường sẽ, vào những khoảnh khắc then chốt, “thoái lui” (dùng thuật ngữ của ông ấy) và không chỉ nhớ những ký ức đầu đời mà còn trải nghiệm chúng theo cách giống như trẻ con. Điều này hoàn toàn hợp lý từ quan điểm khả biến thần kinh. Anh L vừa từ bỏ một cơ chế phòng vệ mà anh ta từng dùng khi bé—sự phủ nhận tác động cảm xúc của nỗi mất mát của anh — và nó đã phơi bày những ký ức và nỗi đau cảm xúc mà người bào chữa đã che giấu. Hãy nhớ lại về Bach-y- Rita đã mô tả một điều tương tự xảy ra ở những bệnh nhân đang trải qua quá trình tổ chức lại bộ não. Nếu một mạng lưới não bộ được thiết lập bị chặn lại thì những mạng lưới não bộ cũ hơn, đã tồn tại từ lâu trước mạng lưới được thiết lập, phải được sử dụng. Ông gọi điều này là “lột trần” những con đường thần kinh cũ hơn và cho rằng nó là một trong những cách chính mà bộ não tự tổ chức lại bản thân. Sự thoái lui trong phân tâm học ở cấp độ thần kinh, tôi tin rằng, là một ví dụ của sự bóc trần, thường xuất hiện trước việc tái tổ chức về mặt tâm lý. Đó là điều xảy ra với Anh L.

Trong buổi trị liệu tiếp theo, anh thông báo rằng giấc mơ hay tái diễn của anh đã thay đổi. Lần này anh đến thăm ngôi nhà cũ của mình, đang tìm kiếm “những đồ vật của người lớn.” Giấc mơ báo hiệu rằng một phần đã chết của anh ta sẽ hồi sinh lại:

Tôi đi thăm một ngôi nhà cũ. Tôi không biết chủ nhà là ai, nhưng nó không phải của tôi. Tôi đang tìm kiếm thứ gì đó – bây giờ không phải là đồ chơi, mà là những đồ vật của người trưởng thành. Đó là vào đầu mùa xuân băng đang tan, cuối mùa đông. Tôi bước vào nhà, và đó là ngôi nhà nơi tôi sinh ra. Tôi nghĩ rằng ngôi nhà trống rỗng, nhưng vợ cũ của tôi – người mà tôi cảm thấy giống như một người mẹ tốt đối với tôi — xuất hiện từ phòng đằng sau, đang bị ngập lụt. Cô ấy chào đón tôi và vui vẻ khi gặp tôi, và tôi cảm thấy phấn chấn. Anh hiện lên từ cảm giác bị cô lập, bị cắt đứt khỏi mọi người và từ những bộ phận của chính mình. Giấc mơ là về “mùa xuân tan băng” đầy cảm xúc của anh ấy và một người giống như mẹ xuất hiện cùng anh trong ngôi nhà nơi anh từng trải qua thời thơ ấu của mình. Cuối cùng thì ngôi nhà không còn trống rỗng. Những giấc mơ tương tự tiếp theo, mà trong đó anh biến đổi quá khứ của mình, ý thức về bản thân anh, và cảm giác rằng anh từng có một người mẹ.

Một ngày nọ, anh đề cập đến một bài thơ về một người mẹ Ấn Độ đói khát, người đã cho đứa con của mình ăn miếng thức ăn cuối cùng trước khi chết. Anh không thể hiểu tại sao bài thơ lại khiến anh xúc động như vậy. Sau đó, anh dừng lại và khóc than, “Mẹ tôi đã hy sinh cuộc đời bà cho tôi!” Anh rên rỉ, toàn thân run rẩy, im lặng, rồi hét lên: “Tôi muốn mẹ tôi!

Anh L không bị chứng cuồng hysteria, nhưng hiện tại đang trải nghiệm tất cả những đau đớn cảm xúc mà các cơ chế phòng vệ của anh ta từng hất hủi, làm sống lại những suy nghĩ và cảm xúc mà anh có khi còn là một đứa trẻ— anh đang thoái lui và lột trần những mạng lưới trí nhớ cũ, thậm chí cả những cách nói chuyện. Nhưng một lần nữa điều này được theo sau bởi sự sắp xếp lại tâm lý ở cấp độ cao hơn.

Sau khi thừa nhận cảm giác vô cùng nhớ mẹ, anh đã đi viếng mộ bà lần đầu tiên trong đời. Giống như là một phần trong tâm tưởng của anh còn giữ khư khư lấy cái ý tưởng mầu nhiệm rằng bà còn sống. Bây giờ anh đã có thể chấp nhận, trong tận tâm can anh, rằng bà đã chết.

Năm sau, Anh L lần đầu tiên trong quãng đời trưởng thành, đã yêu sâu đậm một người phụ nữ. Anh cũng trở nên chiếm hữu người yêu và có cảm giác ghen tuông như người bình thường, đó cũng là lần đầu tiên. Bây giờ anh đã hiểu được tại sao phụ nữ lại tức giận vì thái độ xa cách và thiếu cam kết của anh, và cảm thấy buồn và tội lỗi. Anh cũng cảm thấy mình đã khám phá ra một phần của bản thân anh từng liên kết với người mẹ và đã mất đi khi bà qua đời. Tìm thấy cái phần đó của bản thân từng yêu thương một người phụ nữ cho phép anh lại rơi vào lưới tình một lần nữa. Sau đó anh đã có giấc mơ cuối cùng của mình trong trị liệu phân tâm:

Tôi thấy mẹ mình đang chơi piano, và sau đó tôi đi gặp người khác và khi tôi quay lại bà ấy đang nằm trong cỗ quan tài.

Khi liên tưởng đến giấc mơ, anh giật mình khi thấy hình ảnh mình nhìn thấy mẹ anh đang nằm trong cỗ quan tài đang mở ta, chạm vào bà, và chết lặng khi nhận ra bà không đáp lại. Anh khóc lóc thảm thiết, và vượt qua nỗi đau ban sơ, toàn thân anh co giật trong mười phút. Khi anh dịu xuống, anh nói, “Tôi tin rằng đây là một ký ức về sự tỉnh dậy của mẹ tôi, được tiến hành với cỗ quan tài mở.”

Anh L. đã cảm thấy tốt hơn, và khác xưa. Anh ta có mối quan hệ tình cảm ổn định với một người phụ nữ, mối quan hệ của anh với con cái trở nên sâu sắc hơn, và anh không còn giữ thái độ xa cách nữa. Trong buổi trị liệu cuối cùng của mình anh thông báo rằng anh đã nói chuyện với một người chị lớn tuổi, chị ấy xác nhận rằng trong đám tang mẹ mà anh có mặt, họ đã để mở quan tài. Khi chúng tôi chia tay, Anh L cảm thấy buồn nhưng không còn trầm uất hay tê liệt trước cái ý nghĩ ly biệt mãi mãi. Đã mười năm trôi qua kể từ khi anh hoàn thành trị liệu phân tâm, anh đã thoát khỏi những cơn trầm cảm nặng và nói rằng phân tâm học “đã thay đổi cuộc đời tôi và cho tôi nắm quyền kiểm soát nó.”

Nhiều người trong chúng ta, vì chứng mất trí nhớ ở trẻ sơ sinh, có thể không tin rằng người lớn có thể nhớ lại được những ký ức đã xảy ra quá lâu như Anh L. Sự nghi ngờ này từng phổ biến tới mức chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để xem xét về vấn đề này, nhưng các nghiên cứu mới cho thấy những trẻ sơ sinh trong 1 và 2 năm đầu đời có thể lưu giữ được những sự kiện, bao gồm cả những sự kiện sang chấn tâm lý. Mặc dù hệ thống trí nhớ rõ ràng không mạnh trong mấy năm đầu đời, nghiên cứu của Carolyn Rovee Collier và những người khác cho thấy nó thực sự tồn tại, ngay cả ở những trẻ sơ sinh chưa thể giao tiếp bằng lời nói. Trẻ em có thể nhớ được những sự kiện từ những năm đầu đời nếu chúng được nhắc. Những đứa trẻ lớn hơn có thể nhớ được các sự việc từng xảy ra trước khi chúng biết nói và một khi chúng học nói được thì chúng có thể diễn đạt thành lời những ký ức đó. Có những lúc Anh L đang làm điều này, lần đầu tiên diễn đạt bằng lời nói những sự việc mà anh ta từng trải qua. Những lần khác, khi anh bỏ chặn những sự kiện từng tồn tại trong ký ức rõ ràng của anh bấy lâu, chẳng hạn như ý nghĩ Mẹ đã hy sinh cuộc đời bà vì tôi, hoặc ký ức của anh ấy về sự thức giấc của mẹ, chúng được kiểm tra độc lập. Và những lần khác, anh “sao chép lại” những trải nghiệm từ hệ thống trí nhớ tiến trình của anh sang hế thống trí nhớ rõ ràng. Và thật thú vị, giấc mơ cốt lõi của anh ấy dường như ghi nhận rằng anh đang gặp 1 vấn đề lớn với trí nhớ của mình — anh đang tìm kiếm một thứ gì đó nhưng không thể nhớ được đó là gì—mặc dù anh cảm nhận được anh sẽ nhận ra nó nếu anh tìm thấy.

Tại sao các giấc mơ lại quá quan trọng trong phân tâm học, và nó có mối quan hệ gì với sự thay đổi tính dẻo thần kinh? Các bệnh nhân thường bị ám ảnh bởi những giấc mơ tái diễn về sang chấn tâm lý của họ và tỉnh dậy với nỗi kinh hoàng. Chừng nào họ vẫn còn ốm yếu (về tâm lý) thì những giấc mơ đó không thay đổi cấu trúc cơ bản của họ. Mạng lưới thần kinh đại diện cho sang chấn—chẳng hạn như giấc mơ của Anh L rằng anh ta đang bỏ quên một thứ gì đó — được kích hoạt lại liên tục.  Những bệnh nhân từng chịu sang chấn đó chỉ trở nên tốt hơn, những cơn ác mộng này dần ít đáng sợ hơn, cho đến khi cuối cùng bệnh nhân mơ thấy điều gì đó kiểu như Lúc đầu tôi nghĩ sang chấn đang tái phátnhưng không phải vậy; bây giờ nó đã kết thúc rồi, tôi đã sống sót. Loạt giấc mơ theo tiến trình này cho thấy tâm trí và não bộ đang từ từ thay đổi, khi bệnh nhân biết rằng hiện tại anh ta đang an toàn. Để điều này xảy ra, các mạng lưới thần kinh phải gỡ bỏ được những mối liên kết nào đó – như Anh L đã gỡ bỏ mối liên kết giữa sự biệt ly và cái chết – và thay đổi các kết nối synap hiện có để mở đường cho những học hỏi mới. Có bằng chứng vật lý nào cho thấy các giấc mơ cho thấy bộ não của chúng ta đang trong quá trình thay đổi tính dẻo (thần kinh), thay đổi những ký ức có ý nghĩa về cảm xúc, đang bị che giấu cho đến nay, như trong trường hợp của Anh L?

Các hình ảnh quét não mới nhất cho thấy rằng khi chúng ta mơ, phần não bộ xử lý cảm xúc, và các bản năng tình dục, sinh tồn và gây hấn của chúng ta hoạt động khá tích cực. Đồng thời hệ thống vỏ não trước trán, chịu trách nhiệm ức chế cảm xúc và bản năng, cho thấy hoạt động kém tích cực hơn.  Khi các bản năng được bật lên và những ức chế bị giảm xuống, bộ não đang mơ mộng có thể tiết lộ những thôi thúc, xung lực thường bị chặn khỏi nhận thức.

Kết quả của các nghiên cứu cho thấy rằng giấc ngủ giúp chúng ta củng cố việc học tập và trí nhớ và ảnh hưởng đến sự thay đổi tính dẻo thần kinh. Khi chúng ta học được một kỹ năng vào ban ngày, chúng ta sẽ giỏi hơn vào ngày hôm sau nếu chúng ta có một giấc ngủ ngon.

Một nhóm do Marcos Frank dẫn đầu cũng đã chỉ ra rằng giấc ngủ giúp tăng cường khả biến thần kinh trong giai đoạn quan trọng khi hầu hết sự thay đổi tính dẻo thần kinh diễn ra. Hãy nhớ lại chi tiết  Hubel và Wiesel đã chặn một mắt của một con mèo con trong giai đoạn quan trọng và cho thấy bản đồ não cho con mắt bị chặn đã bị chiếm bởi con mắt tốt— đây là trường hợp của việc sử dụng nó hay đánh mất nó. Nhóm của Frank đã làm thí nghiệm tương tự với hai nhóm mèo con, một nhóm bị thiếu ngủ và một nhóm khác thì ngủ đủ giấc. Họ phát hiện ra rằng mèo con càng được ngủ nhiều thì sự thay đổi tính dẻo thần kinh càng lớn trong bản đồ não bộ của chúng.

Trạng thái mơ cũng tạo điều kiện cho sự thay đổi tính dẻo thần kinh. Giấc ngủ được chia thành hai giai đoạn và hầu hết giấc mơ của chúng ta xảy ra ở một trong hai giai đoạn đó, được gọi là giấc ngủ REM (mắt chuyển động rất nhanh). Trẻ sơ sinh dành nhiều giờ trong giấc ngủ REM hơn người lớn và trong giai đoạn thơ ấu này, sự thay đổi tính dẻo thần kinh diễn ra ở tốc độ nhanh nhất. Trên thực tế, giấc ngủ REM là cần thiết cho sự phát triển tính dẻo của não bộ ở thời thơ ấu.

Một nhóm do Gerald Marks dẫn đầu đã thực hiện một nghiên cứu tương tự như Frank, xem xét tác động của giấc ngủ REM đối với mèo con và cấu trúc não của chúng. Marks nhận thấy ở những chú mèo con bị thiếu giấc ngủ REM, các tế bào thần kinh trong vỏ thị giác của chúng thực sự nhỏ hơn, vì vậy giấc ngủ REM dường như cần thiết cho các tế bào thần kinh phát triển bình thường. Giấc ngủ REM cũng được chứng minh là đặc biệt quan trọng để tăng cường khả năng lưu giữ ký ức cảm xúc của chúng ta và cho phép hồi hải mã biến những ký ức ngắn hạn của ngày hôm trước thành những ký ức dài hạn (nghĩa là nó giúp ký ức trở nên lâu dài hơn, dẫn đến thay đổi cấu trúc trong não).

Mỗi ngày, trong trị liệu phân tâm, Anh L đã làm việc với những xung đột, ký ức và sang chấn cốt lõi của mình, và vào ban đêm, có bằng chứng về giấc mơ không chỉ của những cảm xúc bị chôn giấu của anh ấy mà còn bộ não của anh đang củng cố việc học và gỡ bỏ những điều mà anh từng học.

Chúng ta hiểu được tại sao Anh L, lúc đầu làm trị liệu phân tâm, lại không có ký ức ý thức về bốn năm đầu đời: hầu hết những ký ức của anh ta về thời kỳ này là những ký ức tiến trình trong vô thức— những chuỗi tương tác cảm xúc tự động – và một vài ký ức rõ ràng mà anh có thì rất đau đớn, chúng bị kìm nén. Trong trị liệu, anh đã tiếp cận được đến ký ức tiến trình và ký ức rõ ràng của 4 năm đầu đời. Nhưng tại sao anh ta không thể hồi tưởng được những ký ức tuổi mới lớn của mình? Một khả năng là anh ta đã kìm nén một số ký ức thời thiếu niên; thông thường khi chúng ta kìm nén một điều gì đó, chẳng hạn như một sự mất mát bi kịch đầu đời, thì chúng ta cũng kìm nén những sự kiện khác hơi liên quan đến nó, để ngăn chặn ý thức tiếp cận được sự kiện gốc.

Nhưng cũng có một nguyên nhân khác. Gần đây người ta đã phát hiện ra sang chấn thời thơ ấu gây ra sự thay đổi lớn về tính dẻo thần kinh ở hồi hải mã, thu nhỏ nó, khiến cho những ký ức rõ ràng, dài hạn mới không thể hình thành được. Những động vật bị tách khỏi mẹ chúng phát ra tiếng kêu tuyệt vọng, rồi sau đó bước vào một trạng thái “tắt nguồn”— giống như những đứa trẻ sơ sinh của Spitz — và giải phóng một loại hormone gây căng thẳng có tên là “glucocorticoid.” Glucocorticoids tiêu diệt các tế bào ở vùng hải mã để nó không thể tạo ra các kết nối synap trong các mạng thần kinh giúp cho việc học và trí nhớ dài hạn rõ ràng. Những căng thẳng đầu đời này khiến cho những con vật bị mất mẹ mắc phải các bệnh liên quan đến stress trong suốt quãng đời còn lại. Khi chúng trải qua quá trình ly biệt kéo dài, các gen bắt đầu sản xuất ra glucocorticoids được bật lên và duy trì trong thời gian dài. Sang chấn tâm lý ở trẻ sơ sinh dường như dẫn đến một sự siêu mẫn cảm – một sự biến đổi tính dẻo thần kinh – của các nơ-ron não bộ điều chỉnh glucocorticoids. Nghiên cứu gần đây ở người trưởng thành sống sót qua nạn bạo hành trẻ em cũng cho thấy những dấu hiệu của siêu mẫn cảm glucocorticoid kéo dài đến tận tuổi trưởng thành.

Việc hồi hải mã co lại là một khám phá quan trọng về khả biến thần kinh và có thể giúp giải thích tại sao Anh L. có quá ít ký ức rõ ràng từ thời niên thiếu. Trầm cảm, căng thẳng cao và sang chấn thời thơ ấu đều giải phóng glucocorticoids và tiêu diệt các tế bào ở vùng hải mã, dẫn đến mất trí nhớ. Con người càng trầm cảm kéo dài thì hồi hải mã của họ càng teo nhỏ lại. Hồi hải mã của những người lớn bị trầm cảm từng bị sang chấn tâm lý thời thơ ấu trước tuổi dậy thì nhỏ hơn 18 phần trăm so với những người lớn bị trầm cảm nhưng chưa từng bị sang chấn tâm lý thời thơ ấu — một bất lợi của bộ não ni-lông: chúng ta thực sự bị mất đi ‘bất động sản’ vỏ não thiết yếu để đáp lại bệnh tật.

Nếu căng thẳng stress chỉ tồn tại một thời gian ngắn thì sự suy giảm kích thước hồi hải mã chỉ là tạm thời. Nhưng nếu căng thẳng kéo dài quá lâu thì tổn hại sẽ là lâu dài. Khi người ta phục hồi khỏi chứng trầm cảm, những ký ức của họ quay lại, và nghiên cứu cho thấy hồi hải mã của họ có thể phát triển trở lại. Trên thực tế, hồi hải mã là một trong hai khu vực nơi các nơ-ron mới được tạo ra từ các tế bào gốc của chúng ta như là một phần của chức năng bình thường. Như Anh L từng bị tổn thương vùng hải mã, khi anh ấy phục hồi ở tuổi đôi mươi khi anh ta bắt đầu hình thành những ký ức rõ ràng trở lại.

Thuốc chống trầm cảm làm tăng số lượng tế bào gốc trở thành những tế bào thần kinh mới trong vùng hồi hải mã. Những con chuột được cho uống Prozac trong ba tuần đã tăng 70% số lượng tế bào trong vùng hải mã của chúng. Thông thường phải mất từ 3 đến 6 tuần để thuốc chống trầm cảm có hiệu lực ở người — có lẽ là trùng hợp, cùng một khoảng thời gian để các tế bào thần kinh mới được sinh ra ở vùng hải mã trưởng thành, mở rộng (quy mô) của chúng và kết nối với các tế bào thần kinh khác. Vì vậy chúng ta có thể giúp người khác (mà không biết điều đó) thoát khỏi bệnh trầm cảm bằng cách sử dụng các loại thuốc giúp tăng cường tính dẻo của não bộ. Khi những người có tiến bộ trong trị liệu tâm lý cũng phát hiện thấy trí nhớ của họ cũng cải thiện, có thể nó cũng kích thích sự tăng trưởng tế bào thần kinh ở vùng hải mã của họ.

Nhiều thay đổi của Anh L có thể gây bất ngờ cho Freud, khi biết độ tuổi mà Anh L tham gia trị liệu phân tâm. Freud sử dụng thuật ngữ “độ dẻo tinh thần” để mô tả khả năng thay đổi của con người và nhận ra khả năng thay đổi nói chung ở con người dường như khác nhau. Ông cũng nhận thấy “sự suy giảm của tính dẻo” có xu hướng xảy ra ở nhiều người lớn tuổi, khiến họ trở nên “cứng nhắc, đứng yên và không thể thay đổi.” Ông quy kết điều này là do “sức mạnh của thói quen ” và viết, “Tuy nhiên, có một số người vẫn giữ được độ dẻo dai về tinh thần vượt xa giới hạn tuổi tác thông thường, và những người khác thì đánh mất nó từ rất sớm.” Những người như vậy, theo quan sát của ông, gặp khó khăn lớn hơn để thoát khỏi các chứng rối loạn tâm thần của họ trong trị liệu phân tâm. Họ có thể kích hoạt sự chuyển dịch nhưng lại khó mà thay đổi chúng. Anh L. chắc chắn là có một cấu trúc tính cách cố định suốt hơn 50 năm. Vậy làm thế nào mà anh ta lại có khả năng thay đổi?

Câu trả lời là một phần của câu đố lớn hơn mà tôi gọi là “nghịch lý của tính dẻo thần kinh” và tôi coi đó là một trong những bài học quan trọng nhất của cuốn sách này. Nghịch lý của tính dẻo thần kinh là các tính chất khả biến thần kinh tương tự cho phép chúng ta thay đổi bộ não và tạo ra nhiều hành vi linh hoạt hơn cũng có thể cho phép chúng ta tạo ra các đặc tính, hành vi cứng nhắc hơn. Tất cả mọi người đều bắt đầu với tiềm năng tính dẻo thần kinh. Một số người trong chúng ta phát triển thành những đứa trẻ ngày càng linh hoạt và sống theo cách đó trong suốt cuộc đời trưởng thành của mình. Còn những người khác, tính tự phát, sáng tạo và không thể đoán trước của thời thơ ấu nhường chỗ cho sự tồn tại của những hành vi quen thuộc lặp đi lặp lại và biến chúng ta thành những bức tranh biếm họa cứng nhắc về bản thân. Bất cứ điều gì bao gồm sự lặp đi lặp lại không có sự thay đổi – sự nghiệp của chúng ta, những kỹ năng, những hoạt động văn hóa và các chứng rối loạn tâm thần – có thể dẫn đến sự cứng nhắc. Thật vậy, đó là bởi vì chúng ta có một bộ não khả biến thần kinh mà chúng ta có thể phát triển những hành vi cứng nhắc đó ngay từ đầu. Như phép ẩn dụ của Pascual-Leone minh họa, khả biến thần kinh cũng giống như những đám tuyết mềm mại trên một quả đồi. Khi chúng ta trượt xuống đồi trên một chiếc xe trượt tuyết, chúng ta có thể linh hoạt bởi vì chúng ta có tùy chọn mỗi lần đi những con đường khác nhau qua tuyết mềm. Nhưng khi chúng ta chọn đi cùng một con đường lần thứ hai hoặc thứ ba, thì con đường mòn sẽ bắt đầu hình thành, phát triển, và chẳng mấy chốc chúng ta sẽ có xu hướng bị mắc kẹt trong một lối mòn — con đường của chúng ta lúc này sẽ trở nên khá cứng nhắc, vì các mạch thần kinh, một khi được thiết lập, có xu hướng trở nên tự duy trì.

Bởi vì tính dẻo thần kinh của chúng ta có thể mang lại cả sự linh hoạt lẫn sự cứng nhắc về tinh thần, cho nên chúng ta có xu hướng đánh giá thấp tiềm năng trở nên linh hoạt của mình, điều mà phần lớn chúng ta chỉ trải nghiệm một cách chớp nhoáng.

Freud đã đúng khi nói rằng sự vắng mặt của tính dẻo thần kinh dường như có liên quan đến sức mạnh của thói quen. Các chứng rối loạn tâm thần có xu hướng được hằn sâu bởi sức mạnh của thói quen vì chúng bao gồm những kiểu mẫu lặp đi lặp lại mà chúng ta không ý thức được, khiến cho ta gần như không thể ngắt được và chuyển hướng chúng nếu như không có các kĩ thuật can thiệp đặc biệt. Khi Anh L có thể hiểu được nguyên nhân của những thói quen phòng vệ của mình, và quan điểm của anh ta về bản thân và thế giới, thì anh ta có thể tận dụng được tính dẻo thần kinh bẩm sinh của mình, bất chấp tuổi tác.

Khi Anh L bắt đầu làm trị liệu phân tâm, anh coi mẹ mình như một bóng ma mà anh không thể nhìn thấy; hiện hữu cả còn sống lẫn lúc chết; một người mà anh trung thành nhưng lại không biết chắc có tồn tại không. Khi chấp nhận rằng bà ấy thực sự đã chết rồi, anh đã mất đi cái cảm giác về bà như một bóng ma và thay vào đó có được cảm giác mà anh thực sự từng có về một người mẹ có thật, bà là một người tốt, cũng yêu thương anh chừng nào bà vẫn còn sống. Chỉ khi nào bóng ma của anh ấy chuyển thành một tổ tiên yêu thương thì anh mới có được tự do hình thành một mối quan hệ thân mật hơn với một người phụ nữ còn sống.

Phân tâm học thường liên quan đến việc biến những bóng ma của chúng ta thành tổ tiên, ngay cả đối với những bệnh nhân không bị cái chết cướp đi người thân yêu của họ. Chúng ta thường bị ám ảnh bởi các mối quan hệ quan trọng từ quá khứ ảnh hưởng đến ta (vô thức) trong hiện tại. Khi chúng ta làm việc với chúng, chúng chuyển từ nỗi ám ảnh chúng ta sang một phần quá khứ của ta. Chúng ta có thể biến những bóng ma của mình thành tổ tiên vì chúng ta có thể chuyển hóa những ký ức ẩn tàng — thứ mà ta thường không nhận thức được sự tồn tại của nó cho đến khi chúng bị gợi lên và bỗng nhiên ở đâu tìm đến với ta—thành những ký ức rõ ràng mà bây giờ ta đã có được một bối cảnh rõ ràng, khiến ta dễ dàng hồi tưởng lại chúng và trải nghiệm như một phần của quá khứ.

Ngày nay, HM, trường hợp nổi tiếng nhất trong tâm lý học thần kinh, vẫn còn sống, đang ở độ tuổi 70, nhưng tâm trí ông thì đã bị khóa ở những năm 1940, vào thời điểm trước khi ông được phẫu thuật và bị mất cả hai hồi hải mã, cảnh cổng mà qua đó các ký ức phải đi qua nếu chúng muốn được lưu giữ và đạt được sự thay đổi về tính dẻo thần kinh dài hạn. Không thể chuyển đổi những ký ức ngắn hạn thành dài hạn, cấu trúc của bộ não và trí nhớ của ông, cùng với hình ảnh bản thân ông về tinh thần và cơ thể, bị đóng băng ở nơi mà khi ông được phẫu thuật. Đáng buồn thay, ông thậm chí còn chẳng nhận ra được bản thân mình trong gương. Eric Kandel, người được sinh ra ở cùng thời điểm, tiếp tục thăm dò vùng hồi hải mã và tính dẻo thần kinh của trí nhớ, xuống đến những thay đổi trong các phân tử dạng đơn lập. Ông đã tiếp tục xử lý những ký ức đau đớn của mình của những năm 1930 bằng cách viết một cuốn hồi ký sâu sắc, đầy thông tin, In Search of Memory. Còn Anh L. — hiện giờ đang ở độ tuổi 70 — không còn bị khóa chặt về cảm xúc trong những năm 1930 vì anh ta có thể mang những sự kiện đã xảy ra cách đây 60 năm lên bề mặt ý thức, viết lại chúng, và trong quá trình làm mới bộ não ni-lông của anh.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *